NHỮNG CHUYẾN ĐI TRINH SÁT
"...Từ đầu năm 1965 đến 1968, kết thúc một giai đoạn vận chuyển cực kỳ ác
liệt, gian truân, Đoàn 125 đã tổ chức đi 28 chuyến, trong đó có 7 chuyến
thành công, chở được 410 tấn vũ khí cho chiến trường; 7 chuyến xảy ra
chiến đấu, ta phá huỷ 4 chiếc, địch lấy 3 chiếc. Ta chủ động phá 2 tầu mắc
cạn ở Hoàng Sa không thể trở về; những chuyến còn lại, gặp địch, cũng
buộc phải quay về.
Đây là giai đoạn khó khăn, song cũng là giai đoạn hào hùng thể hiện ý chí
ngoan cường của cán bộ, chiến sỹ Đoàn 125, chiến công và sự hy sinh thầm
lặng, cao cả của họ đã góp phần viết nên trang sử "huyền thoại" về con
đường vận chuyển trên biển Đông...
...Sau đợt vận chuyển tết Mậu Thân, Đoàn 125 tạm dừng vận chuyển đi "B"
một thời gian. Dưới sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, Thường vụ và
Đảng uỷ Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 tiến hành rút kinh nghiệm, tìm ra
nguyên nhân những chuyến đi không thành để tiếp tục vận chuyển trực tiếp
chi viện cho chiến trường miền Nam khi có điều kiện.
Thời kỳ này, trên vùng biển miền Nam, Mỹ ngụy chia làm ba tuyến hoạt
động phong toả. Tuyến 1 là tuyến sát bờ, rộng 3 hải lý, kể từ bờ. Tuyến này
có các tầu tốc độ nhanh, hải thuyền và máy bay lên thẳng, máy bay trinh sát
L19, 528 đảm nhiệm. Tuyến 2 là vùng biển cách bờ từ 3 đến 5 hải lý, do các
tầu PCF cuả Mỹ phụ trách. Tuyến 3 từ 15 đến 45 hải lý do các tầu khu trục
quét mìn, máy bay NAVY, máy bay P2V7 và P3V phụ trách. ở tuyến này,
khoảng 3 đến 4 giờ, các phương tiện đó lại tuần tiễu một lần.
Trên bờ, những vị trí sát biển và những luồng lạch nơi địch ngờ tầu ta có thể
vào trú đậu chúng ra sức bắn phá, pháo kích, thả chất độc hoá học làm trụi
lá cây.
Một số vị trí trên biển, chúng cho là trọng điểm, tầu địch thường lặng lẽ thả
trôi, phục kích, đón lõng tầu ta. Khi bắt gặp tầu ta, chúng thường tấn công ở
những cự ly cách bờ 2 đến 8 hải lý, với lực lượng từ 2 đến 3 tầu hải quân, 3
đến 4 hải thuyền, 1 đến 2 tầu hộ vệ của Mỹ và khoảng 2 đến 6 máy bay.