PHẦN 1:
THEO LỜI THẦY TU NÓI
Khung cửi đã trở nên yên lặng. Ông lão đã chú ý sự thiếu vắng của tiếng
lách-cách-lách-cách nhịp nhàng của nó trước đó một chút, và bây giờ ông
kiên nhẫn chờ đợi nó trở lại. Ông ngồi ở một cái bàn cũ, trên mặt bàn nơi
ông đặt vài cuốn sách cổ, bề mặt của nó phủ một lớp vàng hổ phách sau
nhiều năm sử dụng. Một cơn gió nhỏ thổi qua cánh cửa sổ mắt cáo thổi
tung lề giấy úa vàng và làm những ngọn râu trắng dài của ông run lẫy bẩy.
Ông hếch đầu lên, căng ra để nghe bất cứ âm thanh nào – tiếng khóc lóc,
chẳng hạn.
Họ đã hoàn thành phòng dệt sớm hơn vài ngày. Tất cả những sự tẩy uế
cần thiết đã được thực hiện. Căn phòng ở đó đợi bà ấy bất cứ khi nào bà sẵn
sàng bắt đầu – không, ông nghĩ, bà ấy phải bắt đầu ngay tức thì. Thế nhưng
Oneh đã khóc lóc, gào thét, nguyền rủa và sẽ không đến gần nó. “Thật quá
tàn nhẫn,” bà nói, bám chặt vào áo choàng của ông lão. “Làm ơn dừng nó
lại. Đừng bắt tôi làm điều này.”
Ông không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc để bà khóc đến khi nước
mắt bà cạn khô. Sau đó ông nói với bà, giải thích một cách kiên nhẫn, như
một người nói chuyện với một đứa trẻ. “Bà đã biết điều này sẽ xảy ra. Bà
đã biết nó vào ngày mà thằng bé được sinh ra.”
Ông đã năn nỉ bà từ lúc hoàng hôn của ngày hôm trước cho đến tận đêm.
Cuối cùng, rạng sáng, Oneh đã để ông dẫn bà vào phòng dệt. Từ sự nghiên
cứu của mình, ông đã nghe âm thanh nặng nhọc của con thoi trong khung
cửi. Đó là một âm thanh lạ lẫm, điều này làm cho sự biến mất của nó thậm
chí còn dễ nhận ra hơn.
Ông lão nhìn qua cửa sổ nơi những lá cây xào xạc trong khu rừng nhỏ.
Chim chóc đang hót vang. Ánh sáng của mặt trời rực rỡ, và nó làm ấm căn
phòng nơi mà những tia nắng của nó rọi vào. Vẫn không có âm thanh nào
của những đứa trẻ đang chơi đùa, và khi dân làng đi lại ra đồng làm việc,
họ cũng làm thế trong yên lặng. Những tiếng thở dài muộn phiền nổi lên tại