Tôi nghiến răng và dấn bước. Annabella tự giải khuây bằng cách
chạy vượt lên trước và trèo lên những cái cuống úa vàng của mấy
bông hoa chết héo trong lúc tôi khập khiễng cố bắt kịp. Nó ngồi trên
đỉnh cuống hoa, điều chỉnh xống váy sao cho nom nó y hệt như một
bông hoa vậy.
“Thật là một mảnh đất cằn cỗi,” con bé tuyên bố. “Không chỉ có cây
lương thực mà tất cả mọi thứ đã ngừng sinh sôi. Cây cỏ, thậm chí cả
hoa lá. Quả là một nạn đói kinh khủng nếu như cả hoa cũng không
mọc được. Anh nghĩ có gì bất ổn với nơi này?”
“Anh bảo mày rồi. Có một lời nguyền.”
“Nhưng lời nguyền kiểu gì kia chứ?”
“Có lẽ là lời nguyền tiên tí hon,” tôi đáp. “Có thể chúng đang hủy
hoại toàn bộ mùa màng bằng những tiếng rú rít và răng nanh có độc
của chúng.”
“Đừng có xấu tính thế, anh Jack. Em chắc chắn không phải do tiên
tí hon.”
Một làn gió hiu hiu thổi tới, và Annabella đung đưa trên cái cuống
hoa của nó. Lá khô bị cuốn theo cơn gió và reo xào xạc xung quanh,
khiến tôi không nghe thấy tiếng người đi tới. Tôi không nghe thấy bất
kỳ tiếng bước chân nào cho tới khi một bàn chân khổng lồ nện xuống,
ngay trước mặt tôi. Nó đi một chiếc giày nom rất quen, mới được vá
lành và đánh xi lại từ tiệm sửa giày.
Bà Martha! Ồ, thật may mắn làm sao! Tôi sẽ được trở lại nhà bếp
trong nháy mắt! Nhưng hôm nay vận may không đứng về phe tôi. Tôi
quên béng mất cái cẳng-chân-gốc-cây của mình và ngã sấp mặt khi cố
gắng tiến thêm một bước. Nhưng bà Martha đã nhìn thấy Annabella.
“Ôi, một bông hoa!” Bà Martha trầm trồ. “Đã nhiều năm rồi ta chưa
từng nhìn thấy bông mao lương nào. Mong rằng đây là một điềm
lành.” Bà cúi xuống thật thấp để hít ngửi bông hoa, trên thực tế chính
là Annabella. “Ôi! Trời đất ơi, cái gì đây?” Tôi vùi đầu vào hai lòng
bàn tay khi bà Martha ngắt bông “hoa” và nâng nó lên. Bà ré lên vui