trụi lá và cả bầu trời. Chạy như thế làm cho anh cảm thấy dễ chịu hơn,
người không thấy run nữa. Chắc nếu cứ tiếp tục chạy thì 2 bàn chân sẽ hết
cóng; mà nhỡ đâu chạy gắng 1 đoạn xa nữa chẳng về đến nơi với anh em ở
trại. Ngón tay, ngón chân và 1 phần trên mặt chắc không còn nguyên vẹn,
nhưng sẽ nhờ anh em cứu vớt cho phần còn lại khi về đến trại. Song lúc ấy
anh lại nẩy ra ý nghĩ cho rằng sẽ không bao giờ mình trở về được tới trại và
sum họp cùng anh em, rằng đến đó đường còn xa, mà người đã bị tê cóng
thế này, chắc sớm muộn cũng sẽ chết cứng thôi. Anh cố xua đuổi ý nghĩ đó,
gác nó lại phía sau, nhưng đôi lúc nó lại hiện ra làm anh cứ phải cố sức
nghĩ đến chuyện khác cho quên đi.
Anh ngạc nhiên không hiểu sao mình vẫn chạy được với đôi chân tê dại
như thế, tê dại đến mức khi cả khối thân người đè nặng xuống và lúc chúng
chạm đất vẫn không có cảm giác gì. Anh thấy như mình đang lướt trên mặt
đất, chân không đến đất, cật không đến trời. Có lúc anh thấy như mình đã
nhìn thấy thần Méc-cua có cánh ở đâu đó, rồi cứ thắc mắc liệu thần Méc-
cua có cảm giác giống như anh khi bay lướt trên mặt đất không.
Chạy 1 mạch về trại và gặp gỡ bạn bè lúc này là điều vô lý hết sức vì
lấy đâu ra sức nữa. Nhiều lần anh vấp ngã, loạng choạng đứng dậy rồi lại
ngã. Anh cố gượng đứng lên, nhưng không nổi, quyết định đành phải ngồi
nghỉ và nghĩ bụng sẽ không chạy mà chỉ bước đều. Lú ngồi xuống thở, anh
thấy người ấm và dễ chịu hẳn lên. Người không còn run nữa thậm chí hơi
ấm như tràn râm ran khắp ngực và bụng. Nhưng sao sờ tay lên mũi và má
vẫn không có cảm giác gì? Chạy cũng không làm hết tê cóng được. Cả 2
bàn tay và bàn chân cũng vẫn không hết tê. Rồi anh lại nghĩ có lẽ phần tê
cóng trên thân thể lan rộng hơn thì phải. Anh cố không nghĩ đến điều đó,
chỉ nghĩ đến điều khác cho quên đi: anh biết mình cứ nghĩ như thế sẽ gây
hoảng sợ, mà anh vốn lại sợ sự hoảng hốt. Dù vậy, ý nghĩ đó cứ ám ảnh anh
1 cách dai dẳng cho đến khi mường tượng ra cảnh toàn thân mình tê cóng
lại. Nghĩ dông dài chán cũng đến thế thôi, thế là anh lại vùng đứng dậy