Nhưng chỉ bằng một việc đơn giản là trả ruộng đất cùng quyền
sản xuất và tiêu thụ cho người nông dân, trong một thời gian rất
ngắn, Việt Nam từ một nước nhận viện trợ lương thực trở thành một
cường quốc xuất khẩu gạo và một số hàng hóa nông, thủy sản
khác. Tự do kinh doanh trong nông nghiệp đã tạo ra một cuộc cách
mạng bằng chính những người nông dân từng đói khổ, thiếu thốn
trong cơ chế cũ.
Phải đi xin những thứ lẽ ra được hưởng
Vậy thì tự do kinh doanh trong các lĩnh vực phi nông nghiệp ở Việt
Nam chắc chắn cũng sẽ tạo ra những bước phát triển đột phá tương
tự. Nhưng đó lại chính là điều mà các doanh nghiệp chưa có được.
Các nhà đầu tư, doanh nghiệp chưa có được tự do kinh doanh như
những người nông dân. Không phải chỉ có các doanh nghiệp kinh
doanh những ngành nghề có điều kiện (còn nhiều ngành nghề
như thế) mới có nhiều phép tắc, thủ tục phải xin (và được cho), mà
cả các doanh nghiệp kinh doanh những ngành nghề không có điều
kiện cũng không hoàn toàn tự do.
Hiện tồn tại nhiều kiểu “giấy phép con” và các kiểu văn bản về
bản chất cũng là “giấy phép”, với các “điều cho”, “điều không
cho”. Hiếm ở nước nào có các kiểu công văn qua lại giữa các doanh
nghiệp và các cơ quan quản lý các cấp như ở Việt Nam. Cấu trúc của
chúng về cơ bản giống nhau. Công văn của doanh nghiệp trình bày,
giải thích và xin. Đáp lại, công văn của cơ quan quản lý nêu quan
điểm và quyết định cho (hoặc không cho). Nếu cái xin mà không
được cho thì doanh nghiệp không được làm. Công văn của cơ quan
quản lý là một kiểu “giấy phép con”. Từ lúc doanh nghiệp xin đến
lúc cơ quan quản lý cho là chi phí thời gian, sức người và tiền bạc, kể
cả các chi phí cơ hội. Sự bất định về kết quả xin làm cho doanh
nghiệp sợ hãi.