Về nguyên tắc, bây giờ chúng ta có thể kiểm soát các khoản cho vay đầu tư chứng
khoán tốt hơn bởi vì vào năm 1934, trước tình trạng Khủng hoảng năm 1929, chính
phủ Hoa Kỳ đã thành lập một Ủy ban Chứng khoán (SEC) để điều tiết các khoản
môi giới. Các tổ chức tương tự cũng tồn tại ở các nước khác, ví dụ như Cơ quan
Dịch vụ Tài chính (FSA) tại Anh, chính vì thế cho vay đầu tư chứng khoán đã được
kiểm soát chặt chẽ hơn so với hồi 1929. Tuy nhiên, trong một thị trường giá lên
mạnh mẽ, những người mua chứng khoán có tiềm năng vẫn có thể mượn tiền để mua
chứng khoán. Các quỹ đầu tư phòng hộ thường sử dụng đòn bẩy tài chính cao, trong
khi các quỹ tín thác đầu tư cũng có thể làm như vậy, như scandal về Quỹ Split
Capital ở Anh vào cuối những năm 1990. Nhưng vào những năm 1990, các nhà đầu
tư thông thường có thể mượn tiền khá dễ dàng, đặc biệt nếu họ dùng nhà làm vật
đảm bảo. Trên thực tế, vào những năm 1990, không nhiều người muốn tăng thế chấp
để mua một danh mục chứng khoán (mặc dù có một số người muốn như vậy). Tuy
nhiên rất nhiều người đã tăng thế chấp của mình, hay các khoản cho vay khác, vẻ
ngoài là để mua các hàng tiêu dùng lâu bền nhưng thực chất họ đã mua đồng thời
chứng khoán hay đầu tư vào các quỹ tương hỗ. Mặc dù hai quyết định có thể không
liên kết trực tiếp nhưng việc mua chứng khoán có thể sẽ không diễn ra nếu lượng
tiền mặt được phép mượn không tăng lên. Sự gia tăng các loại chứng khoán phái
sinh, như quyền chọn và chứng quyền cũng khiến việc mua chứng khoán giờ đây trở
nên dễ dàng hơn.
CUỘC SUY THOÁI NHỮNG NĂM 1930
Vào cuối năm 1929, ban đầu Fed khá hài lòng vì bong bóng chứng khoán thị
trường nhà đất đã vỡ, tuy nhiên khi nhận thấy nền kinh tế trở nên yếu kém, Fed đã
cắt lãi suất chiết khấu mạnh vì thế mà chỉ trong một năm, lãi suất chiết khấu giảm từ
6% xuống còn 2,5%. Đồng thời chính sách tài khóa cũng đóng vai trò hỗ trợ khi
chính phủ cho phép thâm hụt ngân sách sâu hơn nữa. Bên cạnh đó, chính phủ còn
khuyến khích thực hiện các thỏa thuận giữ nguyên mức lương nhằm ngăn chặn khả
năng lương và sức tiêu dùng giảm mạnh.
Chính sách này rất kịp thời và khôn ngoan và thường được mọi người đánh giá là
một biện pháp thích hợp để kiểm soát suy thoái kinh tế xuống mức độ vừa phải.
Chính sách tiền tệ và tài khóa vào năm 2001 có nhiều điểm rất tương đồng, lãi suất
liên ngân hàng
giảm từ 6,5% xuống còn 1,75% và một biện pháp kích thích tài
khóa lớn đã được Chính quyền mới của Tổng thống Bush thực hiện. Các thỏa thuận
giữ nguyên mức lương (wage maintenance agreement) không còn phổ biến nhưng