rất mờ nhạt trong nhà tôi. Phong ôm con chó tên Xịt đang ngoe nguẩy
ngoài hiên vào lòng, leo lên xe rồi bảo: "Về nhà tôi!".
Phong dựng cái chòi xinh xắn để học bài trong khu vườn của ba mẹ
nó. Trước cửa chòi, đầy xác pháo và vỏ hạt dưa. Tụi nhỏ kéo một cái ghế
cho Xịt nằm xong lấy bài ra đánh. Uyển và tôi, hai "người già" ngồi bổ dưa,
dọn bánh thuẫn và pha trà, thỉnh thoảng hé mắt nhìn, không hiểu gì lắm.
Từ xa, thấy anh đưa thư đạp xe tới, tôi chạy ra chặn đường hỏi thư,
anh cười: "Không!" Uyển bảo: "Tao nghĩ, nó không viết gì cho mày đâu,
chắc mải đi với em nào dưới đó!" Tôi thấy người ta thường mong người
khác bất hạnh để được tỏ lòng thương hại, ai cũng vậy, có điều người khôn
thì giấu đi, kẻ dại thì để lộ.
Buổi chiều, cả bọn lên chùa, tụi con trai ngồi ngoài ghế đá đợi Uyển
và tôi vào thắp nhang. Trên vòm điện chính, chim sẻ ríu rít bay chuyền qua
các chùm đèn lồng, tôi đứng trước Phật và khấn: "Xin cho mẹ con mạnh
khỏe và con được bình an". Rồi tự hỏi, sao lần nào thắp nhang, tôi cũng chỉ
xin "bình an".
Rồi chụp hình, ông phó nhòm nói như ra lệnh cho đám loay hoay này:
"Nhìn tôi đi, nhìn tôi". Phong lẩm bẩm: "Ông có đẹp gì mà nhìn", rồi nó
đưa hai ngón tay lên đầu tôi như hai cái sừng con, tôi cười, hơi thương hại,
cái trò đùa này hàng trăm, ngàn kẻ đã làm, nó lặp lại làm gì cho nhàm
chán?
Mùng Năm
Anh lên thành phố với một dáng vẻ lạ lùng. Tôi hỏi: "Anh có nhận
được thư?" Anh gật đầu, "Sao anh không viết?" "Anh cũng không biết". Tôi
bảo: "Về đi, mệt lắm rồi" Rồi tôi ngồi đằng sau, nhắm chặt mắt cho đến khi
xe dừng trước cửa nhà. Anh chúc: "Năm mới..." Tôi ngăn lại: "Thôi đủ
rồi!". Vào nhà, tôi xé tờ lịch mùng năm, bỏ vào trong tủ.
Đêm đó, trời Thanh Đa đầy sao, Châu Uyển và tôi trong một cái quán
cùng những vỏ bia. Tôi bảo: "Mượn cho tao ghế bố", bên bờ sông, tôi nằm,
nhìn lục bình trôi cùng gió lạnh, bờ bên kia là dừa nước, là những rặng cây
hoang dại. Trong trạng thái lơ mơ, tôi nhớ lại mười ngày chờ đợi đã qua.