“Anh chị giỏi quá,” Kwang Meng khen ngợi, lần này là lần thứ ba.
“Quan trọng lắm chứ. Nhà ở cũng thể hiện lối sống mà. Một căn nhà,
cũng như một đời người, tùy thuộc vào cách sắp xếp của mỗi người. Ai
cũng nên hiểu như thế, mà tự bắt tay sắp xếp đi. Mình cứ thấy như là, cả
đến thế hệ chúng mình bây giờ, sinh sau thời chiến rồi, dân ta vốn chẳng
suy nghĩ như thế. Chúng mình cứ trôi nổi vô hướng. Ở trường, mình cố in
vào đầu lũ học sinh chuyện này. Chúng phải học được điều đó.”
“Anh chắc là một thầy giáo giỏi, Boon Teik.”
“Mình đang cố. Ai cũng phải cố cả. Dẫu làm gì, cũng phải cố gắng làm
thật tốt.”
“Kể cả khi chuyện ta làm là vô nghĩa?” Kwang Meng hỏi.
“Chẳng có gì là vô nghĩa,” Boon Teik đáp.
Lời anh nói ra thật mạnh mẽ. Mạnh mẽ đến mức Kwang Meng muốn tin,
dù không tin được. Nhưng cách nói của anh thật làm người khác thấy muốn
tin tưởng, đúng như một thầy giáo mẫu mực, Kwang Meng nghĩ. Không
phải là giọng điệu của người có quyền thế, mà giọng điệu khiến mọi thứ
gần như là sự thực. Đến nỗi Kwang Meng ước gì đó là sự thật.
Dẫu thế, anh vẫn đáp lại. “Em không chắc đâu. Trên đời này có những
thứ, à không những công việc chứ,” anh chữa lại, “thật vô nghĩa.” Anh tự
nhiên nhớ tới công việc của mình.
“Có thể trông thì có vẻ vô nghĩa, nhưng thật ra thì không đâu. Tùy cách
nhìn nhận sự việc thế nào thôi. Mình tin rằng chuyện này phải nhìn xa hơn,
từ điểm nhìn xã hội. Con người là một sinh vật xã hội, cậu phải chấp nhận
điều đó. Con người sống trong xã hội, và vì thế để xã hội vận hành được,
phải có đủ thứ ngành nghề. Nhưng dẫu là loại nghề gì, cấp độ nào, mọi
người đều có chỗ của mình như những bánh răng trong một cỗ máy phức
tạp, như trong một chiếc đồng hồ ấy. Mọi bánh răng, mọi chi tiết đều quan
trọng.”
“Có lẽ thế. Nhưng ngày xưa, người ta cũng dùng cách lý luận này để bảo
vệ cho chế độ nô lệ, để khẳng định rằng nô lệ cần thiết cho một xã hội nào