đó. Tay triết gia Hy Lạp nào đó nói thế phải không, em không nhớ nữa.”
“Nhưng chúng ta có còn chế độ nô lệ nữa đâu,” Boon Teik nói.
“Ta chỉ gọi nó bằng cái tên khác, có thế thôi. Bị xã hội ép buộc làm
những chuyện vô ích thì cũng như làm nô lệ vậy.”
“Thôi nào, thôi nào,” Boon Teik khiển trách.
Không thích cãi vã, Kwang Meng im lặng. Anh thấy tranh cãi là vô ích,
vì hầu như không khi nào một bên lại chấp nhận quan điểm bên kia; họa
hoằn lắm một bên mới bị thuyết phục tới mức thay đổi hoàn toàn thế giới
quan, dù đúng hay sai. Không, mình sẽ không để bị lôi cuốn vào cuộc tranh
luận nào hết, anh quyết định. Điều đó chỉ làm mình ghét Boon Teik, và anh
ấy ghét mình, mà mình lại không muốn ghét Boon Teik.
“Cậu phải hiểu rằng, xã hội hiện đại phức tạp lắm. Xã hội càng hiện đại
thì càng phức tạp, và trong xã hội phức tạp đó, phải có đủ loại chức năng
cho con người, từ cao đến thấp. Thật ra thì, chính sự phân cấp đó quyết
định cấp độ phát triển của xã hội.”
Boon Teik dừng lại, như chờ đợi Kwang Meng tiếp tục tranh luận.
Không nhận được phản hồi, anh ta nói tiếp. “Có vẻ không công bằng, cái lý
thuyết bảo vệ chức năng con người mà có kẻ chặt củi, kẻ kín nước kia,
nhưng ngược đời thay, đó là bản chất của chế độ dân chủ.”
Em không muốn cãi là điều đó không đúng, thậm chí không muốn chối
có thể điều đó chính là dân chủ. Điều duy nhất em có thể nói được, là nó rất
đáng buồn. Kwang Meng nghĩ thầm, nhưng quyết định không nói ra.
“Mình biết chuyện đó đáng buồn lắm, nhưng đó là điều không chối cãi
được,” Boon Teik nói, như đọc được suy nghĩ của Kwang Meng. “Nhưng
cuối cùng thì, vấn đề là làm cho mọi người hiểu ra rằng dù công việc của
họ có thấp bé chán chường thế nào, thì đó cũng là một việc có ích, có ý
nghĩa cho sự vận hành trơn tru của xã hội,” Boon Teik thêm vào.
“Nhưng điều đó có làm họ thỏa mãn đâu, có làm công việc của họ trở
nên hấp dẫn hơn đâu, đúng chứ?” Kwang Meng bác lại.