Corbu.”
“Tôi biết chuyện đó,” Stephanie nói. “Ông ta đã tô hồng mọi chuyện,
thêm thắt vào, thay đổi đủ mọi thứ. Sau này, có nhiều tờ báo khác cũng
đăng và dần dần câu chuyện trở thành một huyền thoại.”
Claridon gật đầu. “Phần bịa ra đã che khuất mất phần có thật.”
“Ông đang nói đến những tờ giấy da dê à?” Malone hỏi.
“Một ví dụ tuyệt vời. Saunière không bao giờ tìm được những tờ giấy da
dê ở chỗ giấu trong cái cột ban thờ. Chưa bao giờ. Corbu và những người
khác đã thêm thắt chi tiết đó vào. Không một ai từng nhìn thấy những tờ
giấy da dê đó, dù cho những gì viết trên đó đã được in lại trên không biết
bao nhiêu quyển sách, quyển nào cũng làm ra vẻ là mình chứa đựng một
thông điệp mã hóa nào đó. Thật là vớ vẩn, tất cả những trò đó, và Lars
biết.”
“Nhưng Lars đã xuất bản những cái đó trong sách của mình,” Malone
nói.
“Chúng tôi đã nói về chuyện đó. Tất cả những gì ông ấy nói là: ‘Người
ta thích sự bí ẩn.' Nhưng tôi biết là ông ấy không thích thú gì khi làm điều
ấy.”
Malone bối rối. “Vậy thì câu chuyện của Saunière là một lời nói dối ư?”
Claridon gật đầu. “Cách diễn giải hiện đại chủ yếu đều sai lầm. Phần lớn
các cuốn sách đều tìm cách liên hệ Saunière với những bức tranh của
Nicolas Poussin, đặc biệt là bức Những người chăn cừu vùng Arcadia.
Người ta cho là Saunière đã mang mấy tấm da dê mà ông ấy tìm thấy lên
Paris vào năm 1893 để giải mà và, trong khi ở đó, mua một phiên bản bức
tranh đó, cùng với hai bức khác nữa, ở Louvre. Người ta cho rằng bên trong
chúng có các thông điệp mã hóa. Vấn đề là thời đó Louvre không bán
những bức tranh chép, và không có tài liệu gì cho thấy bức Những người
chăn cừu vùng Arcadia từng được cất giữ ở Louvre vào năm 1893. Nhưng
những người tạo ra cái huyền thoại đó không mấy quan tâm đến các nhầm
lẫn. Họ chỉ muốn sao cho không ai phát hiện ra sự thật, và trong một thời
gian dài họ đã hoàn toàn đúng về chuyện đó.”
Malone chỉ vào hình vẽ. “Lars đã tìm thấy nó ở đâu?”