hẹp. Cassiopeia cũng dừng xe ở phía sau. Họ bước ra ngoài không khí lạnh
buốt của vùng núi.
“Tôi không nghĩ tất cả chúng ta nên đi cả vào làng,” anh nói. “Nơi này
có vẻ như không mấy khi có nhiều khách du lịch cùng một lúc.”
“Anh ấy nói đúng đấy,” Mark nói. “Bố tôi luôn rất thận trọng trong việc
tiếp cận mấy cái làng kiểu này. Để tôi và Geoffrey lo việc này. Chỉ là hai
người đi dạo chơi thôi. Việc đó thì không mấy lạ lùng vào mùa hè.”
“Anh không nghĩ là tôi sẽ tạo được ấn tượng tốt à?” Cassiopeia hỏi.
“Tạo ấn tượng tốt không phải là vấn đề của cô, Malone châm chọc.
“Khiến cho người ta quên đi được ấn tượng đó mới là vấn đề.”
“Thế ai bắt anh phải làm việc đó?” Cassiopeia hỏi.
“Tôi,” Thorvaldsen tuyên bố. “Mark biết rõ vùng núi này. Cậu ấy biết
tiếng. Để cậu ấy và Geoffrey đi vào đi.”
“Thế thì đành vậy,” cô nói. “Đi đi.”
****
Mark đi trước, anh và Geoffrey bước qua cánh cổng chính và vào một
quảng trường nhỏ cây cối bao quanh. Geoffrey vẫn đeo cái túi đựng hai
quyển sách, cho nên trông họ rất giống hai người leo núi đi dạo vào buổi
chiều. Những con bồ câu bay vòng vòng phía trên đám mái ngói bằng đá
slate
màu đen, chập chờn trên ngọn gió đang thổi lồng lộn qua các khe
đá, thứ gió đang đẩy những đám mây dạt về phía Bắc phía trên những ngọn
núi. Không một bóng người.
Một con đường rải sỏi dẫn từ quảng trường được chăm sóc cẩn thận và
điểm xuyết bằng những tia nắng. Tiếng chân gõ cồm cộp báo hiệu sự xuất
hiện của một con dê núi, rồi nó lại biến mất ở con đường phía bên kia.
Mark mỉm cười. Cũng giống như nhiều nơi khác trong vùng, đây không
phải là một nơi đông người.
Một đống đổ nát của một vinh quang nào đó xa xưa nằm ở nhà thờ, phía
cuối quảng trường. Mấy bậc tam cấp hẹp dẫn lên một cánh cửa kiểu La Mã.
Dù vậy, bản thân tòa nhà lại mang dáng dấp Gothic nhiều hơn, tháp chuông
của nó là một hình bát giác kỳ cục khiến Mark ngay lập tức chú ý. Anh