đành phải lẽo đẽo đi theo. Về tới nhà, trước tiên anh bí mật giấu kỹ bộ cánh
rồi ra soạn sửa cơm nước, áo quần, chăn chiếu cho nàng tiên dùng. Từ đó
nàng tiên trở thành vợ anh.
Lấy nhau không được bao lâu, vợ chàng sinh một đứa con trai. Thấm thoắt
đứa con đã lên ba tuổi. Chồng sung sướng nhìn con bập bẹ tập nói, còn vợ
thì đã thưa nhắc đến chuyện đòi lại bộ cánh để trở về trời.
Một hôm, anh chàng có việc phải đi xa và đi lâu. Trước khi lên đường, anh
dặn vợ:
- Mẹ con ở nhà, có ăn thì ăn đụn lúa vang, rồi sang đụn lúa ré, chớ ăn đụn
lúa rẹ, có tổ ong vò vẽ, đốt cả mẹ liền con.
Nhưng vợ ở nhà không làm theo đúng lời dặn của chồng. Sau khi ăn hết
đụn lúa vang, nàng liền chuyển sang ăn đụn lúa rẹ. Không thấy có tổ ong
vò vẽ nào đốt cả, nàng tiên bèn sinh mối ngờ vực. Lời dặn của chồng, nếu
trước đấy là một lời dậm dọa, thì lúc này đã trở thành một câu mách ngầm.
Qủa nhiên, sau một hồi tìm tòi, nàng tiên đã tìm thấy bộ cánh cũ của mình
giấu kín dưới cót thóc mà chồng dặn phải kiêng không đụng đến.
Được cánh, nàng tiên nóng lòng về thăm bố mẹ, chị em đã từ lâu xa cách.
Nhưng khi lắp cánh vào thì thấy ngường ngượng. Đã lâu lắm không bay,
nàng cảm thấy nặng nề khi cất cánh. Từ đó, hàng ngày nàng phải giở cánh
ra tập luyện. Mỗi lần mẹ bay la bay bổng, đứa con trai ngây thơ cười như
nắc nẻ.
Thấy con cười, mẹ mắng:
- Cười sằng sặc có khi rặc cổ, cười ha hả có khi rã xương!