khôi hài hay hoạt kê như đã phân loại trong phần nghiên cứu ở tập I. Tuy
nhiên, về hình thức, chúng lại khó phân biệt với truyện cổ tích. Chúng là
những truyện thường kết cấu chặt chẽ, có đầu có đuôi, hơn nữa, nói chung,
thường mang tính mục đích: mỗi truyện có ý nghĩa nhất định: cũng không
phải là những truyện có tính cách tập hợp từng mẩu, mỗi mẩu thường mang
một ý nghĩa, hợp thành một chùm truyện như loại truyện Trạng Quỳnh,
truyện Ông Ó, v.v... cũng không phải là những truyện có kết thúc nửa
chừng khi nụ cười hay ý nghĩa câu chuyện đã tới điểm nút như phần nhiều
các truyện tiếu lâm, ngụ ngôn, v.v... Tất nhiên, trong những truyện kể ở đây,
cái không khí vui tươi dí dỏm thường được thay vào cái không khí nghiêm
trang của phần đông các truyện cổ tích, chẳng khác gì một số truyện đã kể
ở các tập trước, như Thầy hít (Số 40), Dì phải thằng chết trôi, tôi phải đôi
sấu sành (số 53), Nói dối như Cuội (số 60), Chàng ngốc được kiện (số 108),
v.v... Những truyện như vậy không phải là hiếm hoi trong kho tàng truyện
cổ tích của các dân tộc. Có điều, như ở cổ tích, sự dắt dẫn của các tình tiết
có làm bật ra tiếng cười thì đấy cũng là những tiếng cười nhẹ nhàng lành
mạnh, không hoặc ít mang cái chất tục tĩu, thô bạo như phần nhiều truyện
tiếu lâm. Chúng tôi tập hợp chúng vào mục cuối cùng này để bạn đọc có
thể thấy nghệ thuật truyện cổ tích (và cả thần thoại) nói chung không phải
không hề biết đến cái vui tươi dí dỏm, hơn nữa, để có điều kiện so sánh và
phân biệt ranh giới giữa một số truyện cổ tích với truyện khôi hài (cũng
như với các loại truyện khác) vốn không phải lúc nào cũng tách bạch dễ
dàng.