một người Âu, ông W.W. Howitt, trong cuốn Colonisation andChristianity
( Londres 1838 ) đã phải phẫn uất thốt lên rằng: “ Trên khắp thế giới, từ cổ
tới kim không có một dân tộc nào đối xử với một dân tộc bị chinh phúc lại
mọi rợ, thô bạo, tàn nhẫn và đáng phỉ hổ như những dân tộc tự cho là theo
Ki Tô giáo đó ”(1)
Bắt đầu là năm 1652. Ba chiếc tàu của công ty Đông Ấn Hòa Lan chở
chừng hai trăm người Hoà Lan ghé Table Bay ở Hảo vọng giác ( mỏm cực
nam của Phi Châu ), để dựng ở đó một căn cứ nghỉ ngơi và tiếp tế thức ăn
nước uống cho các tàu buôn hương liệu trên con đường từ Amsterdam qua
Viễn Đông.
Đất cát phì nhiêu, khí hậu mát mẻ, bọn định cư đó làm ăn phát đạt, không
chịu sự chi phối của công ty nữa, tách ra khỏi mẫu quốc, chế tạo lấy những
thứ cần thiết và chỉ dùng mỗi cuốn Thánh Kinh để dạy con cháu. Người ta
gọi họ là bọn Boer. Ngôn ngữ của họ lần lần biến đổi gồm thâu nhiều tiếng
Nam Phi, chỉ còn lơ lớ cái giọng Hòa Lan, tới thế kỷ XIX, thành một ngôn
ngữ riêng, tiếng Afrikaans, và người ta không gọi họ là người Boer nữa, mà
gọi là người Afrikaner.
Từ Hảo vọng giác, họ chiếm lần đất đai, ăn sâu vào nội địa như tằm ăn dâu,
đàn áp, tàn sát các thổ dân Hottentot, Bushmen.
Một nhóm người mà muốn làm chúa tể một khu đất mênh mông xa mẫu
quốc, ở chân trời góc bể như vậy, tất nhiên phải đoàn kết với nhau, bảo tồn
truyền thống, phong tục, sống tách biệt với người bản xứ, và tinh thần kỳ
thị chủng tộc phát sinh từ đó: họ coi người bản xứ là dã man, chỉ đáng làm
nô lệ cho họ thôi. Để biện hộ cho thái độ kỳ thị đó, họ cho rằng Thượng Đế
đã sinh ra giống người da trắng, và giống người da đen thì dĩ nhiên là Ngài
tán thành những hành động nào, có mục đích ngăn cản bước tiến của ngươi
da đen. Thậm chí ( họ ) còn qui cho Ngài cái ý tạo ra người da đen để cưa
củi và xách nước cho người da trắng nữa.
Nhưng tới năm 1814, Hòa Lan nhường thuộc địa Hảo Vọng giác ( Cape
Colony ) cho Anh, thời vàng son của họ kết thúc. Họ phải bỏ phía Nam tiến