hồ sơ kiểu cũ. Các tay nắm đã được sơn lại nhiều lần. Các khung cửa sổ
cũng vậy.
Tôi mở khóa, đặt ba ngón tay vào mỗi tay nắm và đẩy mạnh. Khung
cửa xê dịch hai phân rưỡi rồi kẹt lại. Tôi tăng thêm lực. Tôi sử dụng lực gần
bằng lực đã dồn vào chiếc cũi hàn song sắt ở tầng hầm tòa nhà cứu hỏa.
Khung cửa sổ đẩy lên trên mỗi lần hai phân, lệch sang trái, chếch sang phải,
lúc nào cũng chống lại lực của tôi. Tôi tì vai vào thanh ngang ở dưới mà
đẩy thẳng hai chân ra. Khung cửa sổ dịch lên mười phân nữa rồi kẹt cứng.
Tôi lùi lại. Không khí ban đêm lùa vào tôi. Khoảng trống tổng cộng chừng
năm chục phân.
Thừa đủ.
Tôi thò một chân ra, gập người ngang eo, chui ra ngoài, đưa nốt chân
còn lại ra.
Điện thoại rung trong túi tôi.
Tôi lờ nó đi.
Tôi leo lên chiếc thang sắt, từng bước chậm khẽ khàng. Được nửa
đường, khi đầu tôi ngang với bậu cửa tầng ba, tôi có thể trông thấy cửa sổ
của hai phòng ở mặt tiền.
Cửa sổ cả hai phòng đều kéo rèm. Chất cô tông nhuốm màu bụi đen
phía sau lớp kính bám đầy bụi. Phía trong không có ánh sáng nào rõ ràng.
Không có tiếng động nào. Không có bằng chứng gì là có người đang hoạt
động. Tôi xoay người nhìn xuống phố. Không có khách bộ hành nào.
Không có người qua đường nào. Chẳng xe cộ gì hết.
Tôi chuyển lên trên. Tới tầng bốn. Cùng một kết quả. Cửa kính bẩn
thỉu, rèm kéo lại. Tôi ngừng lại một lúc lâu dưới ô cửa sổ nơi ban nãy tôi đã
thấy có người cử động. Hoặc cử động do tôi tưởng tượng ra. Tôi không
nghe thấy hay cảm nhận thấy gì.