Mercedes được sinh vào cuối năm 1912, Materia rất thương con bé, cô
không cần phải cố gắng, chỉ tự cảm thấy vậy, đó là một sự kì diệu đáng
mừng. Tạ ơn Jesus, mẹ Mary, Joseph và các vị thánh, và cả Chúa nữa.
Materia không còn ganh tị với đứa con trai thứ ba của bà Luvovitz nữa,
Ralph, nhỏ hơn Mercedes hai tháng tuổi, có thể lớn lên chúng sẽ lấy nhau.
James không phản đối cũng không có ý kiến gì về việc Materia để một
Cha xứ rửa tội cho Mercedes ở một nhà thờ Công giáo gần Lingan. Cô bắt
đầu đi đến những buổi gặp mặt, không chỉ vào chủ nhật mà là mỗi ngày. Cứ
như nước thánh trong sa mạc, cô đã không nhận ra cô khát tới mức nào.
Materia thắp nến và quỳ gối cầu nguyện dưới chân bức tượng Mary cao
hơn 2 mét, cô đang ẵm Mercedes trong tay, nhưng cô không nhìn lên, cô
nhìn thẳng vào đôi mắt hồng ngọc của con rắn đang mỉm cười ngay dưới
chân tượng Đức mẹ Đồng trinh.
Materia xem đó như là một sự hy sinh, cô chỉ chơi đàn ở nhà thờ, và chỉ
chơi các bài thánh ca. Sự nhượng bộ duy nhất của cô là quyển sách nhạc
IDit cho bà Luvovitz, đó là thứ duy nhất mà cô có thể làm cho một người
bạn đã dành cho cô quá nhiều. Sau cùng thì cũng chỉ có một vị Chúa mà
thôi.
Mười một tháng sau, bà Luvovitz lại tất bật với công việc quen thuộc của
mình khi Materia sinh France. Điềm may là Frances đưa chân ra trước, bà
Luvovitz cho tay vào và xoay cô bé lại, một con bê và một em bé cũng
không khác nhau là mấy. Frances được sinh ra trong một lớp màng bọc, đó
là một điềm rất tốt cho một đứa bé sinh ra trên đảo, nó có nghĩa là cô sẽ
không bao giờ bị chết đuối.
Frances có vẻ gầy gò và không có tóc, Materia biết rằng điều này là do
cô thụ thai quá sớm sau khi sinh Mercedes, những dưỡng chất trong dạ con
của cô vẫn chưa được bổ sung đầy đủ, sữa cô cũng không nhiều, tất cả cứ
như những lí do để cô cũng yêu đứa con này.
Frances được rửa tội ở nhà hát Empire ở đại lộ Plummer, những vết đào
vĩnh viễn của nhà thờ Đức mẹ núi Carmel.