Năm Kiến An thứ 13, vào tháng 12, mùa đông Chu Du dẫn nguyên đội
quân nhân mã từng đánh Xích Bích, nhằm hướng Giang Lăng khởi động
một cuộc chiến mới. Chẳng ngờ Tào Nhân không rút chạy, lại còn ngoan cố
chống đỡ suốt mấy tháng trời. Quân Đông Ngô đánh trận này rất đỗi gian
khổ, Chu Du tự mình chỉ huy đánh thành ở mặt chính diện, không được một
chút gì, lại bị Tào Nhân mấy lần đột kích, tổn thất không ít tướng sĩ.
Mãnh tướng Cam Ninh đề nghị một kế hoạch khác là đánh vào Di Lăng, để
lôi kéo đội quân Tào Nhân, tiêu giảm ý chí đề kháng của họ song cánh quân
này lại bị Tào Nhân dùng chiến thuật giương đông kích tây đánh bại, cơ hồ
toàn thể tan tác cả. Cam Ninh chỉ còn biết chạy thoát thân. Hai bên đối đầu
hơn một năm, khiến Chu Du đau đầu không thôi.
Trong trận đánh thành rất ác liệt, Chu Du bị trúng tên ở sườn phải với vết
thương nghiêm trọng. Song để cổ vũ tinh thần quân sĩ, vẫn gượng chống
gậy đứng dậy, chỉ huy việc quân trong doanh trại; Tào Nhân sợ hãi trước
khí thế của Chu Du, lại sợ quân du kích của Lưu Bị chặn mất đường về, bèn
làm theo chỉ dẫn của Tào Tháo từ trước, vứt bỏ Giang Lăng rút chạy về
Tương Dương, để chỉnh đốn lại phòng tuyến.
Vết thương của Chu Du vẫn chưa lành, lại thêm việc công bận rộn chẳng
thể tĩnh dưỡng; một năm sau, vết thương càng trầm trọng, từ trần ở giữa trại
doanh.
Trong thời gian hội chiến Giang Lăng, Lưu Bị và Trương Phi cùng hiệp trợ
tác chiến với Đông Ngô ở phía bắc. Gia Cát Lượng thì dẫn quân sĩ của
Quan Vũ và Triệu Vân, phối hợp với quân Giang Hạ của Lưu Kỳ, lấy các
quận phía nam làm đại bản doanh trước mắt nam chinh bình định bốn quận
là: Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng.
Khi Kinh Tương bị mất, bốn quận phía nam chưa bị quân Tào chiếm lĩnh,
song về nguyên tắc họ đều chịu sự chỉ huy đương thời của Lưu Tông,
hướng về Tào Tháo đầu hàng.
Quận Vũ Lăng do quận trưởng bỏ chức mà chạy, Tào Tháo lệnh cho Kim
Toàn là cựu thần ở đấy làm Thái thú.
Theo kế hoạch của Gia Cát Lượng, quân Quan Vũ tập kích vào Vũ Lăng và
Trường Sa, quân Triệu Vân đánh vào Quế Dương và Linh Lăng.