Nguyên; họ sớm đã biết nuôi tằm, khơi ngòi, tưới nước, đánh cá, đắp đầm
hồ và thắp lửa, nghe đâu có lịch sử bắt đầu từ 34 nghìn năm trước, có lễ
nghi, văn tự, âm nhạc riêng của mình.
Ở thượng du Mân Giang gần Thành Đô, có dấu vết đời sống của người Đê
và ngươi Khương, và cả người Thổ Nhĩ Kỳ nữa. Theo “Thuyết văn giải tự”
của Hứa Thận đời hậu Hán, những tộc người này rất giỏi trồng dâu nuôi
tằm, dệt vải lụa, nên được gọi là người “Tâm Tùng”.
Lại theo “Hoa dương quốc chí” của Thường Cừ đời Tấn, truyền thuyết về
đất Thục đời cổ đại, từng bị nạn Hồng Thủy, nên người ở đấy đã sớm khơi
ngòi, bắt cá, đắp hồ. Ông vua cuối vương triều Bồ Trạch là Vọng đế, sau
thất bại về trị thủy, trao ngôi kế vị cho tể tướng Khai Minh. Khai Minh thờ
thần Rùa, tương truyền là một nhà thủy lợi cuối đời Hạ, được ủy thác việc
trị Hồng Thủy, sau này được giao quyền bính, trở thành người thống trị đất
Thục. Câu chuyện này có chỗ na ná với chuyện thần thoại về vua Nghiêu,
vua Thuấn và Đại Vũ, có thể là một phiên bản cũng nên; nhìn chung đấy là
một vùng đất biệt lập có nhiều biến động lịch sử.
Trong thời kỳ Khai Minh làm vua đất Thục, từng lệnh cho năm lực sĩ trong
họ, lấy những khối đá lớn trong núi làm bia mộ của nhà vua; những khối đá
lớn ấy dài ba trượng, nặng mấy vạn cân, người sau gọi là măng đá.
Có người cho rằng hai cây trụ đá ở ngoài cửa tây Thành Đô là những măng
đá ấy, cây phía bắc cao một trượng sáu thước, chu vi chín thước rưỡi, cây
phía nam cao một trượng ba thước, chu vi một trượng hai thước. Nghe nói
những măng đá ấy vào đời Hán đã bị sứt mẻ nên không cao như trước nữa.
Đỗ Phủ là thánh thơ đời Đường có viết bài thơ “Thạch duẩn hành”, ngợi ca
về khối đá ấy:
Anh có hay chăng ngoài Ích Châu
Có cây cột đá đã bao lâu
Phải chăng khanh tướng thời xưa đó
Mượn đá đề danh vạn kiếp sau.
Lại có một truyền thuyết khác không giống như Đỗ Phủ đã viết. Tương
truyền rằng những khối đá lớn mà năm lực sĩ vận chuyển không phải là
măng đá ở Thành Đô, mà là đá gương ở Vũ Đảm Sơn, phía tây bắc Thành