Năm 1935, bộ luật Nüremberg ra đời đòi tước bỏ quyền công dân và tất
cả các quyền dân sự của người Do Thái ở Đức – Hitler cho rằng đây là một
giải pháp khả dĩ để xử lý “vấn nạn Do Thái,” tuy nhiên, nhà độc tài khét
tiếng này cũng đã đặt vấn đề phải tuyệt diệt sắc dân này như một “giải pháp
tối hậu” (Endlösung) khi cần thiết.
Những vụ bách hại dân Do Thái khởi đầu vào cuối năm 1938 trong
biến cố bạo động Đêm kính vỡ (Kristallnacht); khi trên toàn nước Đức và
nhiều nơi tại Áo, dân Do Thái bị tấn công, cướp bóc và tước đoạt tài sản;
nhà cửa, cửa hiệu của họ bị đập phá, hàng vạn người đi các trại tập trung.
Khái niệm holocaust ra đời như sự thảm sát, diệt chủng trên tầm nhà nước
của Đức Quốc xã, được thực hiện ở quy mô công nghiệp, mà người Do Thái
là những nạn nhân hàng đầu.
Khi thế chiến thứ hai nổ ra vào đầu tháng Chín năm 1939, tại nhiều
vùng đất mà phát xít Đức chiếm đóng ở phía Đông, những đơn vị đặc biệt
(Einsatzgruppen – đội hành quyết) được trao nhiệm vu tán sát hàng loạt
người Do Thái và các đối thủ chính trị của nước Đức Quốc xã.
Tại nhiều quốc gia châu Âu, dân Do Thái bị gom lại trong các khu biệt
cư (ghetto) rồi bị chở đi các trại lao động khổ sai để phục vụ cho công
nghiệp chiến tranh Đức. Làm việc cực nhọc 12-14 tiếng mỗi ngày trong
những điều kiện vệ sinh, ăn ở hết sức tệ hại, thường xuyên bị bạc đãi, đánh
đập, không ít người đã thiệt mạng trong thời gian lao động cưỡng bức.
Người già, yếu, phụ nữ và trẻ em thường được chở tới hàng loạt các
“trại tử thần”: những ai sống sót qua chặng đường vài trăm cây số, trong
những hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt và tàn nhẫn, thì đa phần cũng bỏ mạng
trong các phòng hơi độc, thi thể họ bị thiêu hủy trong các lò thiêu.
Một hệ thống khổng lồ các trại tập trung, giam giữ, cấm cố, lao động
khổ sai và hủy diệt được hình thành trên nhiều khu vực bị chiếm đóng để
đáp ứng nhu cầu “xử lý” sắc dân Do Thái và các nhóm thiểu số khác, trong
số đó, được biết đến nhiều nhất là khu trại chính (thường gọi là “trại mẹ”)