như Primo Levi, Elie Wiesel, Claude Lanzmann, hoặc Spielberg và
Polanski. Tác phẩm đã nhìn nhận khả năng để “cá nhân có thể sống và tư
duy trong một thời đại mà con người ngày càng tự phụ thuộc vào chỉnh thể
xã hội.”
Khả năng đó, như thông điệp của Kertész, chính là thích ứng để tồn tại.
Như nhà văn, nhà phê bình Hungary Spiró György nhận xét trong một
nghiên cứu về cuốn tiểu thuyết, “chúng ta nhận được ở đây một điều gì đó
khác với những gì chúng ta có thể chờ đợi từ một cuốn tiểu thuyết thông
thường, hoặc giả một tiểu thuyết về tù ngục: đó là triết lý sinh tồn, gần như
làm nổ tung những giới hạn của văn học.”
Triết lý sinh tồn đó được thể hiện bàng bạc qua giọng kể bình thản,
dung dị đến lạnh lùng của nhân vật tôi – người kể chuyện – trong suốt tiểu
thuyết, và đọng lại ở những dòng cuối sách: “Ngay cả ở bên đó, bên cạnh
những ống khói lò thiêu, giữa những đau đớn vẫn có một thứ gì đó giống
như hạnh phúc. Ai cũng chỉ hỏi về những khổ ải, về “những nỗi kinh
hoàng”: trong khi ấn tượng này có lẽ lưu lại đáng nhớ nhất. Đúng, phải nói
về điều này, gần nhất tôi sẽ nói cho họ nghe về hạnh phúc của các trại tập
trung, nếu sau này họ hỏi. Nếu như họ hỏi. Và chỉ nếu chính tôi cũng không
quên điều đó.”
Thứ tình cảm phi lý và nghịch dị ấy của con người – coi thế giới tù
ngục, trại tập trung như nơi thân thuộc của mình – về sau còn được Kertész
tập trung mổ xẻ và phát triển trong Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời
(Kaddis a meg nem született gyermekért, 1990), thường được coi là sự tiếp
nối của Không số phận. Hai tác phẩm trên, cùng truyện vừa Thất bại (A
kudarc, 1988) tạo thành một bộ ba, được giới nghiên cứu đánh giá là lời phê
phán nghiêm khắc “tất cả các thể chế độc tài, đã bần cùng hóa những cơ
chế xã hội được đặt cơ sở trên sự tôn trọng cá nhân.”
(1)
* * *