Rồi mai kia, mùa gặt tới, cả nhà lại ra thiêng nà, các tổ đổi công,
các nơi đã có hợp tác xã, cả làng lại ra gặt. Kho lúa chất giữa ruộng -
sáu tháng mùa khô ở làng không có mưa, khói cơm chiều và đàn vịt
đàn ngỗng la đà nhặt thóc rụng, vừa chập tối đã lại ríu rít tiếng khèn
vào vòng múa lăm vông đưa cái vui gặt hái đến trên cánh đồng.
Niềm vui thật đơn sơ, thật thân thương, như buổi chiều lặng lẽ, mấy
đứa trẻ đứng quanh váy mẹ nhìn mẹ cất vó trong ruộng mưa mới
như những tên làng gắn bó với nơi ở, những pác ngọn, những nậm,
những pa, con suối, con cá, cánh rừng.
Ngoài cửa sông Nậm Ngừm, vẫn một dải những cánh đồng từ
Phôn Hồng xuống, đến đây đồng ruộng, bờ sông đã lẫn với những
vườn cây rậm rạp như rừng. Bao nhiêu cây ăn quả, vừa tưởng đây
thiếu cây ăn quả, vừa tưởng đây thiếu cây gì, lại thấy có cây ấy:
những vườn dứa, những cây me, những vườn ổi, vườn xoài, vườn
mít, những cây táo mọc hoang, xó xỉnh nào cũng thấy.
Đã ra đến bến Thà Đừa trông sang Nong Khai bên Thái Lan. Ở
Nong Khai có đường xe lửa của U Don, Cò Rạt. Chỉ một đêm xuống
tới Băng Cốc. Và người Nong Khai qua sông sang bên này còn kịp
vào buổi chợ sớm Viêng Chăn.
Bến Thà Đừa. Bến Thà Đừa, một bến đò thông thường như ta
thấy ở bất cứ một bến sông nào, không một vẻ tấp nập, cũng không
lạ và hiện đại như thủy điện Nậm Ngừm, không như cảnh đẹp của
chùa hang sông Pác U, không như một làng êm đềm trù phú.
Nhưng đây là bến cửa ngõ, địa đầu biên giới có đường thông
thương sang bên Thái Lan. Dù vắng, dù đông, trên núi hay trong
cánh đồng, khi ta đến những bến sông, những nhà ga, những con
đường, những cửa khẩu qua biên giới mỗi đất nước bao giờ cũng gợi
trong lòng điều gì băn khoăn.