Dệt: hoạt động được thực hiện với một ấu trùng.
Diều tập thể: bộ phận của lòng hào phóng.
Đầu: đơn vị đo lường của kiến. Tương đương với 3 milimét.
Điều hòa không khí: điều chỉnh nhiệt độ ở các tổ lớn nhờ phòng tắm nắng,
phân, và cửa thông khí mát nằm ở mái vòm.
Độ: đơn vị tính thời gian-nhiệt độ và thời gian-niên đại. Trời càng nóng, các
độ-thời gian càng co lại; trời càng lạnh, chúng càng nở ra.
Đội quân: đám lính có thể thao diễn cùng lúc.
Đom đóm: sâu cánh cứng tạo ra ánh sáng lân quang. Ăn được.
Đẳng cấp: nói chung, có ba đẳng cấp: kiến hữu tính, chiến binh, kiến thợ.
Chúng cũng được chia nhỏ thành các tiểu đẳng cấp: kiến thợ nông nghiệp,
lính pháo binh, vân vân...
Giáo lý của các kiến chúa: toàn bộ thông tin quan trọng được truyền từ râu
sang râu từ kiến chúa mẹ sang kiến chúa con.
Gió: nó nhấc bạn khỏi mặt đất để đặt bạn tới chỗ không biết ở đâu.
Guayeê-Tyolot: một tổ mùa xuân nhỏ.
Hạt: kiến đỏ hung thích phần dầu của các hạt. Có nghĩa là mẩu nhỏ nhiều
dầu nhất. Một tổ trung bình thu gặt 70 000 hạt mỗi vụ.
Hướng của Tổ: những con kiến đỏ hung xây thành phố của chúng bằng
cách bố trí phần rộng nhất về hướng Đông Nam, để nhận được tối đa ánh
sáng mặt trời lúc đầu ngày.
Khứu giác: những con vô tính, ở mỗi râu, có 6 500 tế bào giác quan. Các
con hữu tính có 300 000.
Kiến đen: những người thành phố thích sống trong bóng tối.
Kiến đỏ thợ dệt: kiến di trú ở miền Đông sử dụng chính ấu trùng của chúng
như thoi dệt.
Kiến đực: côn trùng sinh ra từ trứng không thụ tinh.
Kiến bịt mặt: loài rất có khiếu về hóa học hữu cơ.
Kiến chủ nô lệ: loài hiếu chiến không thể sống được mà không có sự giúp
đỡ của người giúp việc.
Kiến lùn: kẻ thù chính của kiến đỏ hung.
Kiến thợ gặt: kiến nông nghiệp miền Đông.