hầu. Nửa đời ông chinh chiến trên lưng ngựa, cuối cùng được phong hầu lại
là nhờ một người mới chỉ điểm. Nhưng chính vì ông là quân nhân, hiểu rõ
đạo lý quân tử không được phụ dù chỉ một lần ân huệ, nên ngay cả tộc đệ
Lý Thái trở thành thừa tướng nhờ vào hôn lễ với Vệ Trường công chúa mà
mơ hồ ủng hộ Vệ gia thì ông vẫn nhớ tới ân tình của Liễu Duệ nên không
chịu hùa vào.
“Ta giao hai vạn kỵ quân cho ông. Để xem khi Lý Quảng có chiến
trường thì sẽ lập nên chiến tích huy hoàng thế nào?”
Lý Quảng chia quân Hán thành bốn phần, luân phiên vượt sông phát
động tiến công nhưng chỉ giao chiến một lát thì lui về. Lúc mới bắt đầu,
người Hung Nô tin là thật, vất vả ứng phó, rốt cuộc sau mấy lần bị lừa mới
tỉnh ra. Mãng Thái ở bờ bên kia giậm chân mắng chửi nhưng toàn tiếng
Hung Nô nên quân Hán không hiểu, cũng không thèm để ý. Đến lúc tối
mịt,người Hung Nô đã mỏi mệt thì Lý Quảng hạ lệnh toàn lực tiến công.
Khi người Hung Nô vừa có phản ứng thì tốp kỵ binh đi đầu của quân Hán
đã tới được giữa dòng Nhược Thủy.
Đó là cuộc chiến cực kỳ gian khổ, quân Hán lớp trước ngã xuống lập tức
có lớp sau tiến lên, không sợ hy sinh, đạp trên thi thể đồng đội để vượt qua.
Thế công mãnh liệt của thiết kỵ Đại Hán đã chia cắt đội hình của người
Hung Nô, tiếp đó là cận chiến khốc liệt. Quân Hán vượt trội ở sĩ khí hung
mãnh, lại có Phi tướng quân danh chấn Hồ Hán chỉ huy, một mình một
ngựa dẫn đầu chém giết rất nhiều binh lính Hung Nô. Máu tươi đổ xuống
dòng Nhược Thủy rồi chầm chậm xuôi về hạ du, càng lúc càng nhạt. Người
Hung Nô tử thương nặng nề, Mãng Thái dẫn tàn quân liều chết chạy trốn về
hướng tây bắc.
“Thôi được rồi.” Lý Quảng ngẩng đầu nhìn Mãng Thái đang bỏ chạy,
cười hào sảng, “Hắn có thể chạy thoát trận này nhưng phía trước còn có
thiết kỵ của Trường Tín hầu chờ hắn.”