cái rìu chiến: hai cái lưỡi sắt hình lưỡi liềm giống hệt nhau, một cái ở phía
trước nơi đáng lý ra là mặt ông ta, cái còn lại ở phía sau, những mép lưỡi
rìu dính tung tóe mấy đốm màu đỏ trông thật đáng ngờ.
Con thuyền tiến vào vũng tàu đậu. Các quả cầu lửa bắt đầu bay vèo vèo
khắp nơi - hạ ván cầu, buộc dây thừng, căn bản là thực hiện các công việc
của thủy thủ đoàn. Làm sao chúng có thể làm được điều đó khi chẳng có lấy
cánh tay nào, và cũng không khiến cho mọi thứ bốc lửa, tôi không biết
được, nhưng việc này chẳng phải là điều kỳ lạ nhất mà tôi đã thấy trong
tuần qua.
Nữ thần Bast leo xuống từ buồng lái. Cô ấy ôm chầm lấy chúng tôi khi
chúng tôi lên thuyền - ôm cả lấy Khufu, người đang cố đáp trả lại bằng cách
bắt rận cho cô ấy.
“Ta rất vui khi hai người còn sống!” nữ thần Bast nói với chúng tôi.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Chúng tôi kể sơ lược cho cô ấy nghe và tóc cô ấy một nữa lại dựng đứng
lên. “Elvis hả? Gừ! Thoth đang trở nên càng lúc càng ác nghiệt khi cao tuổi.
À mà, ta không thể nói rằng ta lấy làm vui khi được ở trên con tàu này lần
nữa. Ta ghét nước, nhưng ta cho là…”
“Cô đã ở trên con tàu này trước đây?” tôi hỏi.
Nụ cười trên khuôn mặt nữ thần Bast tắt dần. “Hàng triệu câu hỏi như
thường lệ, nhưng hãy đi ăn trước đã. Thuyền trưởng đang đợi.”
Tôi không nóng lòng muốn gặp mặt với cái rìu khổng lồ, tôi cũng không
hăm hở gì với thêm một bữa tối có món pho-mát-nướng-Friskies của nữ
thần Bast, nhưng chúng tôi vẫn đi theo cô ấy vào trong thuyền.
Phòng ăn được trang trí đậm nét phong cách Ai Cập. Các bức bích họa
đầy màu sắc vẽ những vị thần lấp đầy mấy bức vách. Các cây cột mạ vàng
đỡ lấy trần nhà. Một bàn ăn dài chứa đủ các món mà bạn muốn - sandwich,
pizza, hamburger, đồ ăn Mexico, thứ gì cũng có. Như thế này bù lại gấp
mấy lần việc đã lỡ mất buổi barbecue của thần Thoth. Trên bàn phụ là một
thùng đá, một dãy cốc bằng vàng, và một máy rót soda với chừng hai mươi
lựa chọn khác nhau. Những cái ghế gỗ gụ được tạc hình trông giống các con