được bằng cách chính đáng. Nếu những lớp đó đạt kết quả tốt trong khi
những lớp khác có giáo viên bị nghi ngờ gian lận không đạt được kết quả
như vậy thì khi đó các giáo viên gian lận khó có thể lập luận rằng các học
sinh của họ đã làm bài không tốt chỉ bởi điểm số không được tính.
Vì vậy, một giải pháp kết hợp đã được thực hiện. Hơn một nửa trong
số 120 lớp phải kiểm tra lại là những lớp bị nghi ngờ là có giáo viên gian
lận. Số còn lại được chia thành các lớp có giáo viên được đánh giá là xuất
sắc (những lớp có điểm số cao nhưng không có bài kiểm tra bị nghi ngờ),
và những lớp có điểm số bình thường và không có những câu trả lời bị nghi
ngờ gian lận.
Công việc kiểm tra lại được thực hiện sau kỳ thi ban đầu một vài tuần.
Bọn trẻ không được cho biết về lý do kiểm tra lại. Kể cả các giáo viên cũng
không được cho biết. Họ chỉ biết đến việc này khi đã được thông báo rằng
các chuyên viên của CPS chứ không phải là các giáo viên sẽ chủ trì tổ chức
kiểm tra lại. Các giáo viên được yêu cầu ở lại trong lớp cùng các học sinh,
nhưng họ sẽ không được phép làm gì ngay cả chạm vào tờ bài kiểm tra.
Kết quả rất thuyết phục đúng như thuật toán tìm kiếm gian lận đã dự
đoán. Trong các lớp được chọn là nhóm để kiểm soát, không có nghi ngờ
nào về gian lận, điểm số đạt mức ngang bằng hoặc thậm chí còn cao hơn.
Ngược lại, các học sinh có giáo viên bị xác định là gian lận đã có điểm số
thấp hơn nhiều, so với điểm trung bình của cả bậc học.
Kết quả là hệ thống CPS đã bắt đầu nhắm vào các giáo viên gian lận.
Bằng chứng chỉ đủ mạnh để loại bỏ một số giáo viên gian lận, nhưng nhiều
giáo viên gian lận khác cũng đã được cảnh báo. Kết quả cuối cùng của
chương trình nghiên cứu Chicago là chứng cứ thuyết phục hơn về sức mạnh
của động cơ: trong năm tiếp theo, những gian lận của các giáo viên đã giảm
tới hơn 30%.
Bạn có thể nghĩ rằng sự tinh vi của các giáo viên, số người gian lận sẽ
tăng lên cùng với các bậc học. Nhưng một kỳ thi được tổ chức tại trường