trên 60 tuổi tăng từ 13% lên 25% trong khi các nước như Anh, Pháp, Mỹ, Italia,
Đức v.v... phải trải qua quãng thời gian 50 – 75 năm (Vương Phong, 2013).
Biến đổi về tỉ lệ tăng trưởng dân số và tỉ lệ sinh thô
Trong khoảng thời gian 30 năm, Trung Quốc đã hoàn tất quá trình chuyển từ
một “xã hội theo mô hình dân số quá độ” sang “xã hội theo mô hình hậu quá độ”
một cách tương đối nhanh chóng. Đặc trưng đầu tiên của một xã hội theo mô
hình hậu quá độ (về dân số) là (i) kì vọng sống tăng mạnh, (ii) tỉ lệ sinh thô thấp
hơn mức thay thế dân số và (iii) dân số ngày càng lão hóa đều đã xuất hiện từ
đầu thập niên 1990.
Hình 7.3: Tỉ lệ tăng trưởng dân số và tỉ lệ sinh thô
Nguồn: Thiết lập theo số liệu UN (2012)
Tỉ lệ sinh thô của Trung Quốc khi bước vào thập niên 1990 bắt đầu suy giảm
xuống mức thấp hơn mức sinh thay thế, chỉ đạt 17,9‰ (trong giai đoạn 1990 -
1995) và giai đoạn hiện nay (2005 - 2010) chỉ còn 12,2‰ – ngang bằng với mức
của các nước phát triển (11,4 ‰ ) nhưng chỉ bằng khoảng 1/2 so với các nước
đang phát triển (21,9 ‰ )
. Sự suy giảm của tỉ lệ sinh thô khiến tốc độ tăng
trưởng dân số của Trung Quốc ngày càng chậm lại. Trong giai đoạn 1950 - 1980,
tỉ lệ tăng trưởng dân số bình quân của Trung Quốc trong mỗi 10 năm là 1,82%,
2,26% và 1,73%. Sang thập niên 1980, con số này giảm xuống còn 1,46% và
thập niên 1990 chỉ còn 1,02% (Wang Feng, Adrew Mason, 2009). Tỉ lệ tăng
trưởng dân số của Trung Quốc hiện nay chỉ ở mức 0,42%, thấp hơn nhiều so với