118:100 trong khi mức trung bình của thế giới là 103:107.
Tại Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (họp tháng 11/2012), nội
dung “duy trì tỉ lệ sinh thấp” đã được cắt bỏ khỏi Báo cáo Chính trị do
Nguyên Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào đọc. Đây là lần đầu tiên trong vòng 10
năm qua lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc không đề cập đến việc hạn chế
sinh nở trong một bài phát biểu quan trọng. Điều này có thể ngầm hiểu là
thế hệ lãnh đạo của ông Tập Cận Bình sẽ khởi động những cải cách liên
quan đến kế hoạch hóa gia đình.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ chính sách một con chưa hẳn đã có thể thay đổi
được tình trạng sinh con ít trong xã hội Trung Quốc hiện đại. Một nguyên
nhân quan trọng là chi phí cho một đứa trẻ tại Trung Quốc ngày càng cao.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHỮNG KHUYNH HƯỚNG BIẾN ĐỔI VỀ DÂN SỐ
CỦA TRUNG QUỐC
Quan sát số liệu về Trung Quốc có thể nhận thấy dân số quốc gia này đã trải
qua 4 giai đoạn trong “Mô hình phát triển dân số 5 giai đoạn” của Blacker
.
Giai đoạn tĩnh tại cao (HS-high stationary) của Trung Quốc tương ứng với thời
điểm năm 1949 với đặc điểm tỉ lệ sinh thô và chết thô đều cao, do đó tăng trưởng
dân số chậm. Giai đoạn mở rộng ban đầu (EE – early expending) tương ứng với
khoảng thời gian 1950 - 1971. Ngoại trừ 3 năm Đại nhảy vọt với nhiều biến động
xã hội, đặc trưng biến đổi dân số Trung Quốc thời kì này là tỉ lệ sinh thô cao
nhưng tỉ lệ chết thô đã giảm dần khiến tỉ lệ tăng trưởng dân số bắt đầu tăng
mạnh. Giai đoạn mở rộng muộn (LE – late expending) tương ứng với khoảng
thời gian 1971 - 2000. Đặc trưng của giai đoạn này là tỉ lệ sinh thô và tỉ lệ chết
thô đều bắt đầu giảm. Từ năm 2000 đến nay, Trung Quốc đang dần chuyển sang
giai đoạn tĩnh tại thấp (LS – low stationary) khi tỉ lệ sinh thô và tỉ lệ chết thô đều
được duy trì ở mức thấp và dần đạt đến sự cân bằng (Hình 7.2).
Hình 7.2: Tỉ lệ sinh thô, tỉ lệ chết thô và tỉ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên
của Trung Quốc 1949 - 2012(‰)