thiết kế, đảm bảo an toàn cho đập. Tích Thất cầm Mạnh Hoạch: Mạnh Hoạch là
một tộc trưởng đứng đầu các dân tộc phía Nam Thục Hán. Khổng Minh đã đích
thân dẫn quân đến bắt và tha Mạnh Hoạch tổng cộng bảy lần để thu phục nhân
tâm các bộ tộc khác. Mạnh Hoạch sau đó thề trung thành với Thục Hán. Richard
III là vở kịch của thi hào người Anh William Shakespear, kể về việc Richard sát
hại Henry VI và sau cái chết của Edward IV, Richard đã âm mưu sát hại sáu
người kế thừa ngôi vua hợp pháp và xúi bạo loạn để đưa ông ta lên làm vua.
Debug: Thuật ngữ tin học chỉ việc loại bỏ các lỗi trong một chương trình.
Nguyên văn “Ngã bản tương tâm bỉ minh nguyệt, Nại hà minh nguyệt chiếu câu
cừ”, là hai câu thơ trong vở tuồng Tỳ bà ký của tác giả Cao Minh – vở tuồng nổi
tiếng nhất cuối thời Nguyên đầu thời Minh. “Caro blue” trong tiếng Trung đồng
âm với cụm từ “cách cách bất nhập”, nghĩa là không hợp nhau. Lý Bạch (701-
762): Nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc, được tôn xưng là Thi tiên. Mộc Qua nghĩa
là đu đủ. Tên một bước nhảy bắt nguồn từ dân vũ Israel, gồm ba nhịp bước và
một nhịp nghỉ. Ý nói cố ngủ thêm. Trung Quốc có câu thành ngữ “đi gặp Chu
Công” nghĩa là đi ngủ. Một câu thành ngữ của Trung Quốc, ý nói việc thành hay
bại cũng do một người. Xuất phát từ điển tích Tiêu Hà vốn là thừa tướng nhà
Hán, là người tiến cử Hàn Tín cho Lưu Bang (Hán Cao Tổ) nhưng cũng là người
lập mưu để giết chết Hàn Tín. Trường Sinh Thiên (Mongke Tengri trong tiếng
Mông Cổ) là vị thần tối cao của người Mông Cổ. Tức vũ điệu dân gian Iste
Hendek của Thổ Nhĩ Kỳ. Do từ “đồng ý” phía trên tác giả dùng từ Khẳng (
肯)
nên nguyên văn câu này là: “Lâm Khẳng (Lincoln) cũng là Khẳng mà Khẳng
Đức Cơ (KFC) cũng là Khẳng.” Là một dạng chơi chữ, không có ý nghĩa về mặt
nội dung nên người dịch xin được dịch thoát ý để người đọc dễ hiểu hơn. Từ Mai
Quế và từ Hoa Hồng đồng âm với nhau, nên nếu gọi là Mai Quế, vẫn có thể hiểu
thành Hoa Hồng. Trong tiếng Hán, chữ “thệ”
誓 gồm ba chữ 打,折 và 言 ghép
lại mà thành.
打折言 nghĩa là “lời nói đã giảm giá”. Đập Đô Giang là công trình
thủy lợi được xây dựng vào năm 256 trước Công Nguyên, thời nhà Tần, nằm ở
Thành Đô, Tứ Xuyên. Lý Băng là vị quan lại nhà Tần phụ trách công trình này.
Nguyên văn “Thiên phủ chi quốc”, một tên gọi khác của Tứ Xuyên, Trung Quốc,
ý nói nơi đất đai phì nhiêu, màu mỡ. Vũ điệu cuối cùng. Hai chữ “Nguyên Sam
Tử” và “Viên Sơn Tử” đồng âm với nhau. Chữ Mai trong từ Mai Quế đồng âm
với chữ Một (nghĩa là không có), nên tác giả dùng chữ Hữu (trái nghĩa với Một)
Quế để chơi chữ. Nguyên văn: Diệp Một Miết. Chữ Quế trong từ Mai Quế đồng