63, 66, 85, 106), Tỳ-kheo nói khoác (80), Tỳ-kheo ném con ngỗng trời (107), Tỳ-kheo làm ồn phi thời
(119), Tỳ-kheo uống nước không có lọc (31).
Tiếp theo là các đề tài liên hệ đến các đệ tử cư sĩ, hoặc của Ðức Phật hay của các vị Trưởng lão. Cấp-
Cô-Độc được nói đến khá nhiều (số 1, 40, 45, 83, 90, 103), đệ tử của Sàriputta (25, 39).
Lại có một số đề tài có thể xem là không liên hệ đến đạo Phật, như đồ ăn cho người chết (số 18), lễ cúng
dường khi cầu nguyện (19), làm lợi ích cho bà con (12), các chòi lá bị cháy (36), các cơn mộng (77) và
đề
tài liên hệ đến nữ nhân (61, 62, 63, 64, 65, 66, 67).
Dựa trên các đề tài được đề cập trong các câu chuyện hiện tại, chúng ta có thể nói, những đề tài phần lớn
đề
cập đến Giáo hội Phật giáo trong thời Ðức Phật còn tại thế và khoảng 100 năm sau khi Ðức Phật
nhập Niết Bàn, nhất là một số tệ trạng các Tỳ-kheo gặp phải, sau khi đạo Phật được truyền bá khắp xứ
Ấ
n Độ và khi bậc Đạo Sư không còn nữa. Các đề tài và các mẫu chuyện cũng giúp chúng ta hiểu được
một số nét về tình trạng xã hội đương thời.
Chúng tôi phải gác một bên, không cho đăng một số mẫu chuyện về nữ nhân, có tánh cách châm biếm
thái quán, và câu chuyện 16 giấc mộng, có tánh cách sấm ký, sợ bị hiểu lầm.
Ở
đây, một vấn đề phải được đặt ra là “Ai là tác giả các tập Jàtaka này?”. Tuy Bộ này được phân loại
vào Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh), tức là một trong năm tập Nikàya, Kinh Tạng, và mỗi câu chuyện
đề
u được diễn tả như là Ðức Phật đã kể lại, chúng ta có những lý do xác đáng để khẳng định tác giả các
tập này phải là các vị Tỳ-kheo, hoặc sống trong thời Ðức Phật, hoặc sau đó khoảng vài chục năm: vì chỉ
có những vị này mới thông hiểu được tổ chức của Giáo hội và hiểu được những mẫu chuyện dân gian
của Ấn Độ; vì chỉ những người am hiểu dân tình, đồng quê xứ sở Ấn Độ mới có thể ghi nhận và trình
bày được. Bài giới thiệu không cho phép chúng tôi đi sâu vào vấn đề tác giả của các mẫu chuyện Bổn
Sanh này. Nhưng căn cứ trên ngôn ngữ học, trên cách hành văn, trên các danh từ được dùng trong các
câu chuyện, các giáo lý được đề cập, Ðức Phật được diễn tả, pháp môn được tu tập v.v..., chúng ta có
những lý do để khẳng định tập Jàkata này mở một kỷ nguyên mới trong văn học Phật giáo và trong cung
cách truyền bá đạo Phật, được xảy ra sau khi Phật nhập Niết Bàn.
Tuy vậy, chúng ta phải xác nhận rằng nền văn học Phật giáo Jàtaka này đã tác dụng rất lớn, ảnh hưởng
đế
n sự truyền bá đạo Phật, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, ở Ấn Độ cũng như ngoài Ấn Độ,
không những trong lãnh vực văn học mà còn lan đến lãnh vực nghệ thuật, kiến trúc, đời sống xã hội
nhân dân, v.v...
Trước hết, một số mẫu chuyện Jàtaka được khắc trên những tác phẩm điêu khắc tại các chùa, các tháp
như ở Sanchi, ở Amaravati, đặc biệt Bharhut, Ấn Độ. Tại đấy, tên các Jàtaka được khắc rõ ràng. Ngày
nay, một số công trình điêu khắc ấy vẫn còn được giữ khá nguyên vẹn tại các di tích Phật giáo Ấn Độ.
Những công trình điêu khắc ấy chứng tỏ các câu chuyện tiền thân đã được biết đến rất nhiều vào thế kỷ
thứ ba trước kỷ nguyên. Pháp Hiển, nhà chiêm bài Trung Quốc, khi đến thăm Tích Lan vào thế kỷ thứ tư
sau kỷ nguyên, đã chứng kiến tại ngôi chùa Abhayagiri, sự trình diễn năm trăm chuyện tiền thân của
Ðức Phật, khi Ngài còn là Bồ Tát, dưới hình thức con voi, con nai, v.v... Chúng tôi khi còn ở Tích Lan,
nhân ngày Phật Đản có chứng kiến các tấm Pandal rất lớn, về các mẫu chuyện Jàtaka để dân chúng đến
xem và chiêm ngưỡng. Và tại các Pandal ấy, có diễn xuất các vở kịch mẫu chuyện Jàtaka nữa. Vì vậy,
ngày lễ Phật Đản ở Tích Lan là ngày mà rất đông dân chúng đi từ Pandal này qua Pandal khác, vừa dự
lễ, vừa xem diễn các vở kịch về Jàtaka; dân chúng vui chơi một đêm trong ngày hội lớn. Các mẫu
chuyện này cũng được dùng làm đề tài thuyết pháp trong các dịp lễ, dân chúng đến nghe suốt đêm, nghe
các vị sư Tích Lan kể chuyện tiền thân Jàtaka mà không biết mệt.
Page 6 of 289
Kinh Tiểu Bộ - Tập IV