102
Chương I: Tương Ưng Nhân Duyên
hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết lạc thọ ấy vô
thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên
hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ vô
thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên
hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết
thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết
không nên hoan hỷ.
16) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm giác
với niệm thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được
cảm giác với niệm thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất
lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly (visannutto).
17) Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân,
vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi
vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy
biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị
ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những
cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái
thân được bỏ qua một bên".
18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò
nung của người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên
một khoảng đất bằng phẳng để sức nóng ở đấy được nguội
dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của
thân, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của
thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh
mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của
sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở