144
Chương I: Tương Ưng Sáu Xứ
rằng đối với tất cả Tỷ-kheo không cần phải cố gắng không
phóng dật đối với sáu xúc xứ.
3) Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào là bậc A-la-
hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã
làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt
được mục đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, đã được giải thoát
nhờ chánh trí; thời này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo
ấy, Ta tuyên bố rằng không cần phải cố gắng không phóng
dật đối với sáu xúc xứ. Vì sao?
4) Vì các vị ấy đã hành trì không phóng dật, đến nỗi họ
không thể trở thành phóng dật.
5) Này các Tỷ-kheo, còn những Tỷ-kheo nào còn là
hữu học, sở nguyện chưa thành đạt, đang sống cần cầu vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách; thời này các Tỷ-kheo, đối
với các Tỷ-kheo ấy, Ta tuyên bố rằng họ cần phải cố gắng
không phóng dật đối với sáu xúc xứ. Vì sao?
6) Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức
khả ái và không khả ái. Dầu chúng xúc chạm tâm nhiều lần,
chúng không chi phối được tâm và tồn tại. Do tâm không bị
chi phối, tinh cần, tinh tấn khởi lên, không có biếng nhác;
niệm được an trú, không có thất thoát; thân được khinh an,
không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh, nhứt tâm. Này các
Tỷ-kheo, thấy được quả không phóng dật này, đối với những
Tỷ-kheo ấy. Ta tuyên bố rằng, cần phải cố gắng không phóng
dật đối với sáu xúc xứ.
7-10) Này các Tỷ-kheo, có những tiếng do tai nhận
thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do
lưỡi nhận thức... có những xúc do thân nhận thức...
11) Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức
khả ái và không khả ái. Dầu chúng xúc chạm tâm nhiều lần,