Cho nên điều thứ nhất là trở thành người quan sát dửng dưng. Và
điều thứ hai là nhớ rằng khi lỗ hổng đẹp phát sinh, đừng bị gắn bó
vào chúng, đừng bắt đầu đòi hỏi về chúng, đừng bắt đầu chờ đợi
rằng chúng sẽ xảy ra thường xuyên hơn. Nếu bạn có thể nhớ hai
điều này - khi lỗ hổng đẹp tới, quan sát cả chúng nữa, và giữ dửng
dưng của mình sống động - thế thì một hôm nào đó giao thông đơn
giản biến mất cùng con đường, cả hai chúng biến mất. Và có trống
rỗng vô biên.
Đó là điều Phật gọi là niết bàn - tâm trí đã dừng lại. Đây là điều tôi
gọi là tự tử - nhưng tâm trí đã không tự tử nó. Tâm trí không thể nào
tự tử nó được. Tâm trí không thể tự tử nó được. Bạn có thể giúp cho
điều đó xảy ra. Bạn có thể cản trở điều đó, bạn có thể giúp điều đó
xảy ra - điều này tuỳ thuộc vào bạn, không vào tâm trí bạn. Tất cả
mọi điều mà tâm trí có thể làm bao giờ cũng là làm mạnh thêm cho
tâm trí.
Cho nên thiền không thực là nỗ lực tâm trí. Thiền thực không phải là
nỗ lực chút nào. Thiền thực chỉ là cho phép tâm trí có con đường
riêng của nó, và không can thiệp theo bất kì cách nào vào bất kì cái
gì - chỉ vẫn còn quan sát, chứng kiến. Dần dần nó im lặng đi, nó trở
thành tĩnh lặng. Một hôm nào đó nó mất đi. Bạn được bỏ lại một
mình.
Cái một mình đó chính là thực tại của bạn là gì. Và trong cái một
mình đó chẳng cái gì bị loại trừ cả, nhớ điều đó. Trong cái một mình
đó mọi thứ đều được bao hàm - cái một mình đó là Thượng đế. Sự
thuần khiết đó, sự hồn nhiên đó, không bị biến chất bởi bất kì ý nghĩ
nào, là điều Thượng đế là gì.
Câu hỏi thứ năm:
Tôi kêu hu trong bụng mình khi tập thiền động, tôi cười với thầy
trong bài giảng, tôi nhảy múa sau khi thiền Nadabrahma, tôi quan
sát căng thẳng của mình trong thiền Kundalini, và lắng nghe chim
chóc đặc biệt tới cùng cho việc thiền với âm nhạc - chúng tận hưởng
nhiều lắm.
Tôi đem bữa tối tới cho muỗi trong thiền Gourishankar. Trong và
giữa các việc thiền dường như là tôi đang làm tất cả một lúc. Tôi
cảm thấy rất, rất gàn dở. Tôi biết thầy yêu điều đó - làm sao tôi cũng
yêu điều đó được?