của Hoa Kỳ là vô ích, [Hoa Kỳ] sẽ phải đánh giá lại chính sách viện
trợ.” Các quan chức Mỹ ở Seoul cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc
tham vấn. Cùng với tình trạng không tham vấn, điều khiến các quan
chức Mỹ đặc biệt không vui là sự thật đằng sau các biện pháp khẩn
cấp ngày 10 tháng 6 và 16 tháng 6 năm 1962. Đại sứ quán Mỹ buộc
Kim Jong-pil và các quan chức “dân tộc chủ nghĩa” khác của KCIA
phải chịu trách nhiệm cho cuộc chuyển đổi tiền tệ và sự thành lập
KIDC. Một số người xem sự kiện này như một âm mưu của những
phần tử lật đổ nhằm chuyển hóa Hàn Quốc thành nền kinh tế kế hoạch
chống chủ nghĩa tư bản - nếu không phải là một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa hoàn toàn.
Hai biện pháp khẩn cấp này đã làm thay đổi mạnh trong đánh giá
của Washington về các mục đích của chính quyền quân sự, đặc biệt là
các kế hoạch của Kim Jong-pil. Kể từ đây chính sách Mỹ đối với sự
phát triển kinh tế của Hàn Quốc bắt đấu thay đổi. Kể từ đây nước Mỹ
không còn đề cao mô hình phát triển của Rostow mà thay vào đó
hướng nhiều hơn đến mục tiêu bình ổn. Cả Killen lẫn Berger đều cố
gắng ngăn cản việc tiến hành kế hoạch HCI quá tham vọng. Để gây áp
lực lên Park, cách hiệu quả nhất và thường được sử dụng nhất chính là
đe dọa cắt viện trợ. Vì viện trợ của Mỹ không chỉ tạo nguồn vốn khởi
sự cho kế hoạch HCI đầy tham vọng mà còn cung tiền cho các quỹ
cứu tế vô cùng cần thiết trong tình trạng kinh tế biến động và vụ mùa
thất bát, việc đe dọa cắt viện trợ đã tỏ ra có hiệu quả khi khiến Park
phải chấm dứt hai biện pháp khẩn cấp. Tuy nhiên việc đe dọa như vậy
không phải lúc nào cũng có tác dụng. Tháng 7 năm 1963, Berger yêu
cầu Washington rút “15 triệu đô-la Mỹ viện trợ với lý do Hàn Quốc
thực hiện không tốt các biện pháp bình ổn cho đến khi các hành động
sửa chữa phù hợp được thực thi.”
Động thái này đã khiến Park điều
chỉnh quá mức, hậu quả là lạm phát tăng trong ngắn hạn, và chỉ từ
giữa năm 1964 trở đi ông mới thực sự quyết tâm ổn định tình hình.
Thậm chí kể cả lúc đó thì chương trình “cải tiến” vẫn được sử dụng để