quyền lực chính trị của ông. Cụ thể hơn, tương phản sâu sắc với lập
luận của giới chỉ trích rằng Park ban hành yushin để nâng cao năng lực
chế độ nhằm trấn áp phong trào chống đối của công nhân, sinh viên và
trí thức bất đồng chính kiến đối với sự cai trị độc tài, Park của giai
đoạn trước 1972 vốn đã sở hữu một nhà nước an ninh hùng mạnh với
những năng lực như vậy. Việc Park có thể trấn áp phong trào chống
đối xã hội một cách hợp pháp khi ban hành các đạo luật an ninh vào
năm 1971 càng làm suy yếu lập luận của giới chỉ trích. Nếu Park chỉ
đơn thuần lo ngại về tính cấp thiết phải trấn áp phong trào chống đối
xã hội, ông đã không cần đến yushin. Ông cũng không phải theo đuổi
lộ trình HCI. EDESG vào năm 1972 đã giải quyết xong cuộc khủng
hoảng tài chính rồi.
Thứ hai, tập trung vào HCI cũng không phải là điều mới lạ. Ngược
lại, trong số sáu ngành công nghiệp nặng và hóa chất được Park xác
định vào tháng 1 năm 1973 để làm ngành chiến lược trong quá trình
phát triển định hướng xuất khẩu, công nghiệp kim loại không chứa sắt
và các ngành công nghiệp hóa dầu đã là mục tiêu trong quá trình công
nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đến cuối những năm 1960. Tương tự,
bốn ngành công nghiệp còn lại đã từng được xác định là các ngành
công nghiệp xuất khẩu tương lai vì bản chất thâm dụng lao động và
thâm dụng vốn của chúng. Mặc dù một số nhà phân tích đã lập luận
rằng Park tạo nên chế độ yushin để ngăn cản công nhân đòi hỏi tăng
lương và các quyền lợi lao động trong các ngành công nghiệp nặng và
hóa chất, Park đã sẵn có một cơ chế kiểm soát lao động hùng mạnh
đang hoạt động trước khi ông khởi động chế độ yushin.
Nói như vậy không phải để chứng minh rằng kinh tế và chính trị
không có liên quan gì đến việc ban hành yushin và lộ trình HCI.
Ngược lại, cả hai đều có xuất phát là một chiến lược chính trị và kinh
tế đặc biệt, tuy nhiên các động lực chính trị và kinh tế không phải là từ
cuộc khủng hoảng tính chính danh và năng lực của Park. Các động lực
về kinh tế và chính trị khác nhau đã góp phần đưa tới yushin. Chính