Á. Nhìn nhận lạc quan về tình hình an ninh khu vực ở Đông Á, PRM-
10 xác định mục tiêu chính của Hoa Kỳ ở khu vực này là duy trì hiện
trạng giữa các cường quốc chứ không phải là ngăn chặn mối đe dọa từ
chủ nghĩa cộng sản. Theo đó, vị thế phòng thủ của Mỹ đang chuyển
dịch đến “vị thế quân sự xa bờ, từ đó tránh tham gia tự động” vào lục
địa châu Á. Để cảnh báo về các xung đột song phương căng thẳng,
PRM-10 chấp nhận vai trò thay đổi đáng kể của Hàn Quốc trong chính
sách quân sự Mỹ, nhấn mạnh nhu cầu chiến lược của Hoa Kỳ là phải
có được “sự linh động” trên Bán đảo Triều Tiên. Hơn nữa, trái với
chính sách truyền thống là tổ chức đánh trả mạnh mẽ sau giai đoạn
đầu nổi dậy chống trả Triều Tiên trong trường hợp chiến tranh, PRM-
10 chủ yếu tập trung vào các biện pháp cần thiết để vô hiệu hóa đòn
tấn công vũ trang ban đầu của Triều Tiên.
Sự chống đối của cộng đồng an ninh Mỹ
Tuy nhiên, sự chống đối chính sách rút quân của Carter vốn đã xuất
hiện từ giai đoạn đầu của quá trình đánh giá các chính sách mới từ
cộng đồng an ninh Mỹ. May mắn cho Park, sự ủng hộ chính sách rút
quân của Carter ở Hoa Kỳ là không mạnh mẽ. Dựa vào quyết định
PRM-10 và PRM-13, không có sự cố vấn của Hội đồng Tham mưu
Trưởng Liên quân, Carter nhận ra nhiều người trong chính phủ chống
đối chính sách Hàn Quốc của ông. Những người này bao gồm không
chỉ Bộ Quốc phòng và ba binh chủng mà còn nhiều nhân sự ở Ủy ban
Đánh giá Chính sách.
William H. Gleysteen, người được dự định sẽ trở thành đại sứ Mỹ ở
Hàn Quốc giai đoạn 1978-1981, là một trong những quan chức như
vậy, ông bị bất ngờ bởi chính sách rút quân của Carter. Là thành viên
nòng cốt trong nhóm liên cơ quan đã chuẩn bị PRM-13, Gleysteen sau
này nhớ lại rằng ở giai đoạn đầu hoạch định, hầu hết các quan chức
trong nhóm đều phản đối kế hoạch của Carter. Rút quân là việc không
bình thường ở Bộ Ngoại giao và đặc biệt hơn ở Bộ Quốc phòng, tuy