trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Seo Jong-cheol, hoãn việc rút hai lữ
đoàn chiến đấu của Sư đoàn Bộ binh 2 từ năm 1978 đến năm 1981.
Bên Hàn Quốc lập luận rằng việc rút các lữ đoàn này sẽ làm tổn hại
nghiêm trọng đến khả năng phòng vệ nếu quân đội Hàn Quốc không
được cho thêm thời gian để bắt kịp Triều Tiên và đảm nhận vai trò dây
báo động trước đây mà quân Mỹ đảm nhận ở mặt trận phía tây. Là một
biện pháp để bù đắp hệ quả từ việc rút quân của Mỹ, Seo Jong-cheol
yêu cầu bán các máy bay chiến đấu tối tân cũng như thành lập Bộ tư
lệnh Lực lượng Kết hợp (CFC) trước khi rút bộ binh USFK. Hoa Kỳ
đồng ý khởi động CFC như là một đầu não tham chiến không chỉ để
thỏa mãn mong muốn của Hàn Quốc về việc có được cam kết của Mỹ
với hoạt động phòng thủ trước Triều Tiên trong thời kỳ rút quân bất
ổn, mà cũng cho phép USFK tiếp tục duy trì quyền chỉ huy tác chiến
lực lượng vũ trang hơn 600.000 quân của Hàn Quốc.
Để có được sự đồng thuận của Park, Hoa Kỳ đồng ý chương trình
1,9 tỷ đô-la Mỹ viện trợ quân sự bù đắp, bao gồm một khoản chuyển
giao hệ thống vũ khí quân sự thuộc sở hữu của USFK (500 triệu đô-la
Mỹ), khoản ủng hộ cho kế hoạch hiện đại hóa quân đội Hàn Quốc
(300 triệu đô-la Mỹ) và khoản bán vũ khí quân sự (1,1 tỷ đô-la Mỹ).
Park từ đó sử dụng việc rút quân Mỹ làm cơ hội để nâng cấp tiềm lực
quân sự Hàn Quốc. Cũng có một thỏa thuận về tổ chức hoạt động quân
sự chung hàng năm nhằm chuẩn bị cho quân đội hai nước liên minh
trong hoạt động quân sự phối hợp trong trường hợp có chiến tranh. Từ
các cuộc đàm phán, Park không chỉ có được thời gian chuẩn bị cho
Hàn Quốc trước việc rút quân, mà còn xây dựng tổ chức (CFC) và
phương tiện (các hệ thống vũ khí quân sự) để tăng cường liên minh
Hàn - Mỹ.
Đối với Carter, mục tiêu chính là chấm dứt vai trò dây báo động của
Sư đoàn Bộ binh 2, từ đó hạn chế nguy cơ bị bẫy vào một cuộc chiến
không mong muốn ở lục địa châu Á. Theo Brzezinski khuyến nghị,
Carter tập trung vào hợp tác chính trị và kinh tế với các nền dân chủ