nhân quyền nóng lên, nhưng chúng không dẫn đến một can thiệp lâu
dài nào của Mỹ. Kể cả kế hoạch rút hoạch rút tất cả bộ binh Mỹ khỏi
Bán đảo Triều Tiên đến năm 1981 của Carter cũng bị mất hiệu lực
năm 1978. Trong mỗi cuộc đối đầu song phương này, Hàn Quốc thành
công trong việc giữ vững lập trường cho đến khi Hoa Kỳ đảo ngược
chính sách, không phải vì Hàn Quốc có sức mạnh ngăn chặn Hoa Kỳ,
mà vì tầm quan trọng chiến lược của Bán đảo Triều Tiên đối với siêu
cường này khiến nó không sẵn sàng dùng hết sức mạnh (xem chương
15). Tuy nhiên khi liên quan đến vấn đề hạt nhân, Hoa Kỳ sử dụng tất
cả các biện pháp khả dĩ để ngăn chặn Park. Thỏa hiệp là lựa chọn
không thể xem xét vì vấn đề trọng tâm là sự ổn định của hệ thống
nguyên tắc không phổ biến vũ khí hạt nhân ở tầm khu vực và toàn cầu
của Mỹ. Park cố gắng mặc cả suốt những năm 1970, lập luận rằng ông
đang tìm kiếm công nghệ hạt nhân dùng cho các mục tiêu kinh tế. Khi
Hoa Kỳ quyết liệt hơn với ông, ông bí mật theo đuổi các chương trình
hạt nhân, nhưng rồi lại tham gia vào các cuộc đối thoại ngoại giao đầy
rủi ro với các quan chức Mỹ dưới áp lực nặng nề. Cuối cùng, ông nhận
ra rằng không thể có đàm phán về vấn đề hạt nhân.
Thứ ba, xung đột hạt nhân cho thấy rằng chính các vấn đề quân sự
là yếu tố định hình mang tính quyết định đối với mối quan hệ chính trị
giữa Park với Hoa Kỳ. Cả những giai đoạn tốt và xấu trong quan hệ
liên minh chủ yếu đều là kết quả của các vấn đề quân sự. Khi Hoa Kỳ
gia tăng sự hiện diện quân sự ở Đông Á để tham gia Chiến tranh tại
Việt Nam những năm 1960, quan hệ của Park với giới lãnh đạo chính
trị Mỹ cải thiện đáng kể vì giá trị của Hàn Quốc như là một đồng minh
sẵn sàng gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam nhằm hỗ trợ các
nỗ lực chiến tranh của Mỹ và chia sẻ gánh nặng “an ninh tập thể”. Khi
Hoa Kỳ bắt đầu triệt thoái quân sự khỏi miền Nam Việt Nam đầu
những năm 1970, Park mất đi vị thế mà ông đã có được trước chính
sách của Mỹ ở Hàn Quốc. Ngược lại, ông nhận ra mình đang tuyệt
vọng khẩn cầu Hoa Kỳ không đưa Hàn Quốc vào số các quốc gia mục