Từ nghiên cứu đến phát triển vũ khí
Hàn Quốc bắt đầu nghiên cứu hạt nhân năm 1956, ba năm sau khi
ký hiệp ước phòng thủ chung với Hoa Kỳ. Chương trình này là một
chương trình nghiên cứu hẹp nhắm vào việc sử dụng năng lượng
nguyên tử trong hòa bình. Như một phần trong nỗ lực giành được sự
bảo vệ của Hoa Kỳ, Hàn Quốc tham gia Cơ quan Năng lượng Nguyên
tử Quốc tế (IAEA), động thái này đặt chương trình nghiên cứu hạt
nhân còn non trẻ dưới sự theo dõi quốc tế năm 1957. Năm 1964, Hàn
Quốc chấp thuận Hiệp ước Cấm thử một phần. Năm 1968 nước này ký
Hiệp ước Không Phổ biến Hạt nhân (NPT), dù sự phê chuẩn thật sự đã
bị hoãn vì sự trì hoãn trong việc tham gia NPT của Triều Tiên. Hoa Kỳ
không gây áp lực cho Hàn Quốc buộc nước này phải chấp thuận NPT
ngay lập tức vì cường quốc này cho rằng hoạt động thanh tra và các
quy định của IAEA đã đủ để hạn chế các hoạt động hạt nhân của Hàn
Quốc ở các cuộc nghiên cứu trong hòa bình. Ngoài ra, chương trình
hạt nhân của Hàn Quốc lúc bấy giờ được Hoa Kỳ hỗ trợ nên các quan
chức từ nước siêu cường có cơ hội rất lớn để kiểm soát những gì
người Hàn đang làm.
Song song với những nỗ lực khởi động chương trình nghiên cứu là
sự cần thiết phải xây dựng nền tảng thể chế. Tháng 3 năm 1956, Lý
[Thừa Vãn] thành lập một bộ phận năng lượng hạt nhân thuộc Bộ
Giáo dục để tiến hành nghiên cứu cơ bản về năng lượng nguyên tử.
Luật Năng lượng Hạt nhân được ban hành năm 1958 và Văn phòng
Năng lượng Hạt nhân (OAE) được thành lập trực tiếp dưới quyền tổng
thống để điều phối nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng hạt
nhân hòa bình. Viện Nghiên cứu Năng lượng Hạt nhân Hàn Quốc
được khánh thành năm 1959 và là một nhánh của OAE, dẫn đến hoạt
động lắp ráp lò phản ứng nghiên cứu Triga Mark- II (250kW) do công
ty General Dynamics thiết kế ba năm sau đó với sự hỗ trợ của Mỹ.
Tuy nhiên, quá trình vốn là một chương trình nghiên cứu và phát
triển năng lượng đã tiến đến phát triển theo chiều hướng quân sự khi