1
V
ào mùa xuân năm 1967, Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ ở miền
Nam Việt Nam tổ chức một lực lượng mới, gọi là Lực lượng Đặc nhiệm
Oregon, bằng cách tập hợp Lữ đoàn Bộ binh nhẹ 196, Lữ đoàn 3 của Sư
đoàn Bộ binh 4 và Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Không vận 101. Lực lượng này
bố trí tại tỉnh Quảng Ngãi, là tỉnh thứ năm ở phía Nam khu phi quân sự dọc
theo bờ biển.
Việc thành lập lực lượng đặc nhiệm mới – một lực lượng đặt dưới sự
chỉ huy của Lực lượng lính thuỷ đánh bộ 3 – là nhằm để tăng cường đối
phó với chiến sự đang tăng lên dọc khu phi quân sự. Dãy Trường Sơn ở
đoạn Quảng Ngãi lượn ra gần biển, giữa núi và biển là một dải đất bằng
phẳng có thể trồng trọt được. Dải đất này dài khoảng tám mươi cây số, chỗ
rộng nhất là hai mươi lăm, nơi hẹp nhất là mười cây số. Lực lượng đồng
minh của Mỹ chia vùng đất này – vốn là nơi sinh sống của hơn 80% trong
tổng số 650.000 dân của tỉnh – thành bốn Khu Trách nhiệm chiến thuật,
phạm vi xấp xỉ bằng nhau, và mỗi khu được giao cho một lữ đoàn chịu
trách nhiệm. Tính từ Bắc xuống Nam là các lữ đoàn: Lữ đoàn nhẹ 196, Lữ
đoàn Lính thuỷ đánh bộ Hàn Quốc (đã đổ bộ lên Quảng Ngãi từ mùa hè
năm 1966), Lữ đoàn Quân lực Việt Nam Cộng hoà (viết tắt là ARVN và
người Mỹ quen gọi là Arvin) và Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 4. Còn Lữ đoàn 1
của Sư đoàn Không vận 101 làm lực lượng dự bị, sẵn sàng cơ động bằng
máy bay lên thẳng đến bất kỳ nơi nào trong tỉnh để giáng những đòn tấn
công bất ngờ vào đối phương.
Nhiệm vụ chính của Lực lượng Đặc nhiệm Oregon là tìm diệt cái gọi
là các đơn vị chủ lực của Việt Công (cũng gọi là V.C. hoặc Mặt trận Dân
tộc Giải phóng) và quân đội Bắc Việt Nam đang hoạt động trong tỉnh
Quảng Ngãi. Tuy nhiên, để tránh việc lặp đi lặp lại những cách hành quân