hiện đầu tư kém hiệu quả. Ở khu vực tư, tỷ lệ thất bại cao (gần như 88% số doanh
nghiệp đã thất bại vào thập niên 1990 tương đương với số thành lập mới) và đã
có rất nhiều công ty không đạt được tỷ lệ sinh lợi có thể cạnh tranh được trên thị
trường. Trong số 500 công ty lớn nhất theo bảng xếp hạng của tạp chí Fortune,
31% không thể đạt được ít nhất 4% cao hơn mức tỷ lệ thu hồi an toàn (risk-free
rate of return) từ các trái phiếu dài hạn của chính phủ - là một tỷ lệ thu hồi rất
khiêm tốn.
Một trong số các cuộc tranh luận chống lại luật phá sản rất hào phóng của Hoa
Kỳ là chúng đã không nhanh chóng loại các đầu tư tư nhân không hiệu quả ra
khỏi hệ thống. Thí dụ sau khi hãng hàng không Eastern nộp đơn xin phá sản, nó
vẫn tiếp tục hoạt động đến hai năm nữa, trước khi chính thức ngưng kinh doanh.
Trong suốt thời gian đó nó đã sử dụng đến hơn một tỷ đô la tài nguyên mà đáng
lý có thể sinh lợi nhiều hơn nếu được đưa vào sử dụng ở một nơi nào khác.
Trong khu vực công, tỷ lệ đầu tư tốt và xấu có thể không khác nhiều so với
trong khu vực tư (với một tỷ lệ thất bại trong khu vực tư là 88%, khó có thể cao
hơn), nhưng những sai lầm trong việc tạo ra công cụ trong khu vực tư ít làm
chúng ta lo ngại hơn đối với các sai lầm trong việc tạo ra công cụ công vì thị
trường thường tự động giới hạn tầm cỡ và thời gian của các sai lầm trong khu vực
tư. Các công ty ngưng hoạt động, ngân khoản mới không được đầu tư vào các
doanh nghiệp không có khả năng đạt tỷ lệ sinh lợi có thể cạnh tranh. Ngược lại,
các khoản đầu tư công kém cỏi thường có vẻ sẽ tồn tại mãi mãi. Các nhà hữu
trách điều hành các công cụ công được hưởng vị thế độc quyền, do vậy công
chúng không có sự lựa chọn để chuyển sang một loạt các công cụ tốt hơn, hiệu
quả hơn và rẻ hơn.
Động lực lớn nhất để tăng cường đầu tư công cụ và tạo hiệu năng trong việc sử
dụng công cụ hiện nay đang thuộc về hai lãnh vực: viễn thông và điện năng. Đây
là động lực có ảnh hưởng đến cả hai khu vực công và tư. Bên ngoài lãnh thổ Hoa
Kỳ, cho đến gần đây, điện thoại và các tiện ích điện năng vẫn do chính phủ xây
dựng, sở hữu và điều hành. Ở trong nước Mỹ, cho đến gần đây, các tiện ích này
được qui định là có tính độc quyền - nhưng do tư nhân sở hữu, do chính phủ qui
định về giá cả và dịch vụ. Kinh nghiệm cho thấy là cả hai hệ thống đều không
hiệu quả. Ở các nước mà quyền sở hữu công đã từng là chuẩn mực thì vấn đề tư