tự nhiên. Trong khi các cáp dẫn bằng đồng đến từng nhà tạo nên độc quyền tự
nhiên thì hiện nay nhiều bang đang cố gắng thành lập các thị trường cạnh tranh
mà trong đó các hộ dân hoặc các doanh nghiệp có thể mua điện từ các nhà cung
cấp khác nhau. Các mạng lưới phân phối độc quyền hiện có phải chuyển tải điện
của nhiều nhà cung cấp điện khác nhau. Vấn đề chính yếu hiển nhiên là ấn định
tỷ lệ chính xác về việc cho thuê công suất phân phối cho từng nhà cung cấp khác
nhau. Tuy nhiên về cơ bản, hệ thống đã không được bãi bỏ nếu như có ai đó cần
qui định giá cho công ty phân phối cung cấp điện cho người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực điện, vấn đề trợ cấp chéo (cross-subsidies) xuất hiện dưới dạng
phí tổn “bị kẹt” thể hiện dưới các công ty tiện ích cũ (như trường hợp Boston
Edison) đã xây các nhà máy phát điện để cung cấp cho các học viện (thí dụ như
MIT), nhưng chính những cơ quan này không còn muốn mua điện từ các tiện ích
cũ bởi vì họ đã xây dựng thêm nhà máy phát điện rẻ hơn. Ai sẽ trả tiền cho các
nhà máy điện mà hiện nay không còn được sử dụng? Các cổ đông của Boston
Edison hay người tiêu dùng (các sinh viên và các nhà nghiên cứu) tại MIT? Đây
là một trường hợp thực tế.
Trong quá khứ với các công ty điện địa phương, giá bán điện khác biệt rất xa
từ vùng này đến vùng khác. Để đạt hiệu năng, giá bán điện phải bằng nhau sau
khi đã tính đến các chi phí để chuyển tải điện từ nơi này đến một nơi khác. Điện
được mua rẻ ở các khu vực có chi phí thấp (làm tăng giá điện), được chuyển tải
và bán lại cho các khu vực có chi phí cao (làm giảm giá điện). Đây là tin vui cho
những người đang sinh sống ở các vùng hiện có giá điện cao, nhưng lại là tin
không vui cho những người sống ở các vùng hiện có giá điện thấp. Một vài khu
vực địa phương sẽ phải trả tiền điện cao hơn ngay cả khi mức giá bán điện bình
quân trong nước giảm xuống. Dĩ nhiên các địa phương này không thích điều này
ngay cả với mục tiêu “đạt hiệu năng” của ngành điện.
Trong việc tư hữu hóa cũng phát sinh những vấn đề tương tự. Nhìn lại quá khứ,
số tiền thu được từ các tiện ích thuộc sở hữu của chính phủ thường có vẻ rất cao
(điều này đúng đối với việc tư nhân hóa các công ty cấp nước công cộng ở Anh),
nhưng quá khứ lại che giấu các rủi ro thật sự hiện có khi nhìn về tương lai. Nó đã
bỏ qua các vấn đề có thể đã phải khắc phục để cắt giảm phí tổn và tạo nên các tỷ
lệ sinh lợi cao đó. Nhưng nhìn lại những gì đã xảy ra, công chúng có khuynh