Nếu các công ty dịch vụ buộc phải hoạt động với lương cao hơn, công ty sẽ có
3 sự chọn lựa: Công ty có thể tổ chức lại qui trình sản xuất để biện minh cho
mức lương cao. Công ty có thể chuyển cho người tiêu dùng dưới dạng giá cao
hơn. Hay công ty có thể đóng cửa.
Kinh nghiệm của lục địa châu Âu cho thấy là dù luật pháp, đoàn kết xã hội và
công đoàn buộc lương dịch vụ cũng tương đương với ngành sản xuất nhưng công
ty không đóng cửa. Không có loại dịch vụ nào ở Hoa Kỳ có mà châu Âu không
có. Ít có doanh nghiệp nâng giá. Giá dịch vụ so với các giá khác nhìn chung châu
Âu không cao hơn Hoa Kỳ. Hầu hết các doanh nghiệp đều có lãi để thực hịên đầu
tư cần thiết để chuyển sang hình thức sản xuất sử dụng nhiều vốn, nhiều kỹ năng,
tiết kiệm lao động và năng suất cao.
Nếu cơ cấu lương của châu Âu được áp dụng cho ngành dịch vụ của Hoa Kỳ,
năng suất lao động ở Hoa Kỳ cũng sẽ nhanh chóng nâng lên mức của châu Âu.
Điều xảy ra cũng tương tự như đã từng xảy ra trong ngành sản xuất khi Henry
Ford tăng lương cho công nhân ô-tô lên 5 USD/ngày mặc dù không thiếu người
sẵn sàng làm việc trong nhà máy. Kết cục, ông ta đã có một lực lượng lao động
ổn định, giỏi hơn và năng suất cao hơn.
Các chính sách về phúc lợi khác làm đảo ngược động lực thu dụng lao động
bán thời gian và lao động thời vụ hiện nay và thu hẹp mức chênh lệch thu nhập
giữa dịch vụ và sản xuất, tất nhiên, sẽ làm giảm đáng kể nhân dụng trong ngành
dịch vụ. Điều này rất cần thiết nếu muốn cơ cấu lương trong ngành dịch vụ tăng
và trở nên bình đẳng hơn và cũng sẽ rất tốt đối với sự lành mạnh của nền kinh tế
về lâu dài. Với tỷ lệ tăng năng suất cao hơn trong ngành dịch vụ, tỷ lệ tăng trưởng
không có lạm phát của nền kinh tế sẽ gia tốc.
Các nền dân chủ phải đáp ứng yêu cầu chung. Những chính sách chỉnh sửa để
tái cấu trúc ngành dịch vụ, áp dụng thuế có thể bồi hoàn đối với đào tạo tại chỗ
hay cải cách hệ thống giáo dục trung học tại Hoa Kỳ sẽ không được thực hiện nếu
không có yêu cầu chung ngăn chặn qui trình tạo bất công trong 25 năm qua.
Nhưng chưa có yêu cầu này. Trong khi đó, số cử tri trong các cuộc bầu cử cứ
giảm dần và những công dân không đi bỏ phiếu chính là những công nhân có thu
nhập đang giảm dần. Tỷ lệ người đi bầu có thu nhập thuộc thành phần cao nhất
cao gấp hai lần so với những cử tri có thu nhập thấp nhất. Những người có thu