“Còn tên họ?”
“Ca ne fait rien.”
“Cha mẹ con?”
Một cái nhún vai.
“Tuổi con?”
“Ông xem khoảng bao nhiêu?”
“Ta biết con đọc được. Có đánh đấm được không?”
“Có đánh nhau nhiều không, chez vous
Chirstophe đã có vóc người bè bè; thằng bé hiện vẫn cần được cho ăn thêm
nhiều nữa, nhưng một hay hai năm nữa thì sẽ khó ai quật ngã được nó. Anh
đoán nó chỉ mười lăm tuổi, không hơn. “Con đang có rắc rối với pháp luật phải
không?”
“Ở nước Pháp,” nó nói, vẻ khinh thị: như người ta thường nói, ở tận Cathay.
“Con là kẻ trộm à?”
Thằng bé phác một động tác đâm, con dao vô hình trong nắm đấm.
“Có ai chết à?”
“Trông y không ổn lắm.”
Anh cười toét miệng. “Con chắc chắn muốn tên mình là Christophe không?
Con có thể đổi tên ngay bây giờ chứ muộn hơn thì không được đâu.”
“Ông hiểu con, thưa ông.”
Chúa ơi, dĩ nhiên ta hiểu. Cậu có thể là con trai ta. Rồi anh nhìn nó thật kỹ,
để chắc rằng nó không phải là thế; rằng nó không phải là một trong những đứa
trẻ đánh nhau ầm ĩ mà đức hồng y nói đến, đứa trẻ anh đã để rơi bên sông
Thames, cũng không phải là không thể bên những dòng sông khác, ở những
miền xa xôi khác. Nhưng đôi mắt của Christophe to, xanh bình thản. “Con
không sợ đi biển chứ?” Anh hỏi. “Ở nhà ta bên London có nhiều người nói
tiếng Pháp. Con sẽ sớm thành người cùng nhà với họ.”
Giờ đây ở Tu viện Austin Friars, Christophe cứ bám theo anh mà hỏi. “Mấy
thầy pháp kia, họ có cái gì đấy? Đó là một tấm bản đồ chôn giấu kho báu à?
Đó là,” - nó vỗ cánh tay anh - “hướng dẫn để làm một cỗ máy biết bay à? Nó