giấc mơ, họ đã vượt qua những rào cản phân biệt chủng tộc không chỉ ở
đây mà còn ở Nam Phi và nhiều nơi khác nữa. Cha tôi truyền cho tôi sự
kính trọng sâu sắc đối với những nguyên tắc đã được nêu trong bản Tuyên
ngôn độc lập. Mẹ khích lệ tôi viết các bài xã luận cho các báo ở trường
trung học và chăm chú lắng nghe hàng giờ khi tôi diễn tập thử cho nhóm
tranh luận. Nếu không có sự khuyến khích của cha mẹ tôi, tôi sẽ không thể
viết được cuốn sách này.
Tôi đã kể lại những điều này cho các thính giả của mình nghe vào buổi tối
đó. Sau đó tôi liếc mắt nhìn về phía người phụ nữ khi nãy, lúc này đang
quay lại chỗ ngồi của cô ấy. “Cô đang đi làm rồi chứ?” Tôi hỏi. Cô gật đầu.
“Cô có sẵn lòng nói với chúng tôi đó là công việc gì không?”.
“Tôi là giáo viên”.
“Một vị trí đáng được kính trọng,” tôi nói, “hồi học lớp 3 tôi có một cô giáo
tên là Schnare. Cô đã tiếp cho tôi sức mạnh để có thể đứng lên chống lại
một kẻ chuyên bắt nạt mình ở trường, rồi cô dạy tôi phải luôn luôn biết bảo
vệ lòng tin cũng như chính mình. Khi tôi học năm thứ hai tại trường trung
học, thầy giáo tiếng Anh của tôi, Richard Davis, đã in sâu vào tôi tư tưởng
ngòi bút mạnh hơn gươm giáo; một năm sau đó, thầy giáo dạy môn lịch sử,
Jack Woodbury, đã tặng tôi những cuốn sách làm tôi tin rằng kẻ mạnh cũng
là kẻ dễ bị tổn thương. Ông nói: “Ngay cả vua chúa cũng là con người. Trái
tim họ cũng có thể tan vỡ, như trái tim của em và thầy. Chúng nhỏ máu. Họ
có thể bị thuyết phục hay bị tủi nhục”.
Cô từ từ bước trở lại phía micro. Người đàn ông trước lối đi nhường chỗ
cho cô. “Tôi cho rằng tôi đã biết điều đó,” cô nói, “Nhưng đôi lúc dường
như dễ dàng hơn khi bỏ qua nó. Không thể kéo dài tình trạng này thêm nữa.
Tôi là một giáo viên. Ngay bây giờ tôi sẽ dạy, dạy thật sự”.