cho các ngài những gì các ngài yêu cầu, nếu các ngài xử sự theo cách thân
thiện. Điều đó không đơn giản nếu tôi không nhận ra rằng được ăn ngon,
ngủ kỹ, sống bình yên với vợ con, gia đình, cười nói thoải mái và vui vẻ với
người Anh, trao đổi với họ rìu sắt và đồ đồng sẽ tốt hơn nhiều việc phải
chạy trốn họ, nằm trong rừng sâu lạnh lẽo, ăn quả đẩu, rễ cây, những thứ rác
rưởi và bị săn đuổi đến nỗi không thể ăn ngon, ngủ yên. Trong những cuộc
chiến này, người của tôi phải đứng canh gác cho tôi và nếu chỉ một cành
cây gãy, tất cả họ sẽ kêu lên: “Thủ lĩnh Smith đến rồi!” Vì thế, tôi muốn
chấm dứt cuộc sống đau khổ này. Hãy bỏ súng và gươm của ngài đi, đó là
nguyên nhân của mọi sự đố kỵ giữa chúng ta. Nếu không tất cả người của
ngài sẽ chết theo cách tương tự!
Khi những người lữ hành Pilgrim (tín đồ Thanh giáo Anh) đến New
England, không phải họ đặt chân tới vùng đất trống, mà là lãnh thổ đã có
các bộ lạc người da đỏ Anh-điêng sinh sống. John Winthrop, Thống đốc
vùng thuộc địa Vịnh Massachusetts, đã biện minh cho việc chiếm đất của
người da đỏ bằng cách tuyên bố vùng đất này về mặt pháp lý là “vô chủ”.
Theo ông ta, người da đỏ không “chinh phục” vùng đất, nên chỉ có “quyền
tự nhiên”, chứ không có “quyền dân sự” đối với vùng đất này. “Quyền tự
nhiên” không có địa vị pháp lý.
Người Puritan (người theo Thanh giáo) cũng biện minh theo Kinh thánh,
dựa theo Thánh thi, Thiên 2:8: “Hãy cầu xin Ta, Ta sẽ ban cho con các nước
làm cơ nghiệp, và toàn thể quả đất làm tài sản”. Và để bao biện cho việc sử
dụng vũ lực chiếm đất, họ trích dẫn Kinh thánh La Mã 13:2: “Cho nên ai
chống cự quyền phép, tức là đối địch với mạng lịnh Ðức Chúa trời đã lập;
và những kẻ đối địch chuốc lấy sự phán xét vào mình”.
Người Puritan sống trong tình trạng “ngừng bắn” không dễ dàng với thổ
dân Pequot, cộng đồng sinh sống tại khu vực bang Connecticut và Rhode
Island ngày nay. Nhưng người Puritan muốn loại bỏ người Pequot và chiếm