bổn phận của mình trong khi những người anh em của các bạn chỉ đứng
nhìn trong tháp ngà của họ... hy vọng một ngày nào đó trong tương lai
không xa, hòa bình và sự hài hòa sẽ bao trùm lên mọi con người của mọi
dân tộc.
Đó là vào tháng 5 năm 1973. Quân đội Mỹ đang rút khỏi Việt Nam. C. L.
Sulzberger, một phóng viên của New York Times (một người thân với chính
phủ) viết: “Hoa Kỳ nổi lên như là một kẻ bại trận thảm hại và các cuốn sách
lịch sử sẽ phải thừa nhận điều này... Chúng ta đã thua trong cuộc chiến tại
lưu vực sông Mississippi, không phải châu thổ sông Mê Kông. Các chính
quyền kế tiếp không bao giờ còn tập trung thu hút được sự ủng hộ cần thiết
của dân chúng trong nước nữa.”
Thực tế, Hoa Kỳ đã thua cả trong cuộc chiến ở châu thổ sông Mê Kông và
lưu vực sông Mississippi. Đó là thất bại rõ ràng đầu tiên đối với đế quốc
toàn cầu Mỹ được hình thành sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thất bại đó
là kết quả từ tinh thần đấu tranh không mệt mỏi vì độc lập, tự do của những
người nông dân giải phóng ở nước ngoài và từ một phong trào phản chiến
đáng ngạc nhiên rộng khắp nước Mỹ.
Quay trở lại ngày 26 tháng 9 năm 1969, Tổng thống Richard Nixon khi lưu
ý về hoạt động phản chiến đang phát triển trên toàn nước Mỹ, đã tuyên bố
hùng hồn rằng “dù trong hoàn cảnh nào tôi cũng không bao giờ bị tác động
bởi bất kỳ điều gì”. Nhưng chín năm sau, trong Memoirs (Hồi ký) của
mình, ông ta đã thừa nhận rằng phong trào phản chiến đã buộc ông ta phải
hủy bỏ kế hoạch leo thang chiến tranh: “Mặc dù tôi tiếp tục phớt lờ các
cuộc tranh luận ác liệt về vấn đề phản chiến trong dân chúng. Nhưng tôi
biết rằng sau tất cả các cuộc chống đối và Ngày Đình chiến, nội bộ nước
Mỹ đã bị chia rẽ nghiêm trọng vì sự leo thang quân sự của chiến tranh.” Đó
là một sự thừa nhận hiếm hoi của ngài Tổng thống về sức mạnh từ phong
trào phản đối của công chúng.