Noam Chomsky, một nhà hoạt động chống chiến tranh hàng đầu trong suốt
thời kỳ chiến tranh Việt Nam đã nghiên cứu các ghi chép lịch sử giai đoạn
giữa năm 1978 để xem xét các phương tiện truyền thông phổ biến đã mô tả
về cuộc chiến đó như thế nào. ông viết rằng họ đang “phá hủy các bản ghi
chép và thay thế nó bằng những câu chuyện dễ chịu hơn… làm giảm nhẹ
‘các bài học’ để biến cuộc chiến vô nghĩa đó trở thành các phạm trù xã hội
mang tính trung lập như sự sai sót, bất cẩn và cái giá phải trả.”
Có thể thấy, bộ máy hành chính của Carter muốn chấm dứt ảo tưởng của
người dân Mỹ sau chiến tranh Việt Nam bằng cách tuân thủ theo các chính
sách đối ngoại một cách thoải mái và ít hiếu chiến hơn. Do vậy, họ nhấn
mạnh đến hai chữ “nhân quyền” và thúc đẩy Nam Phi, Chile thực thi các
chính sách mở cửa. Nhưng nếu phân tích cụ thể, các chính sách mở cửa này
được xây dựng nhằm mục đích bảo toàn cho quyền lực và tầm ảnh hưởng
của quân đội Mỹ cũng như nền kinh tế Mỹ trên khắp toàn cầu.
Cuộc đàm phán lại về Hiệp ước Kênh đào Panama với quốc gia Trung Mỹ
Panama bé nhỏ là một ví dụ. Mỗi năm, kênh đào này giúp Mỹ tiết kiệm 1,5
tỷ đô-la chi phí vận chuyển và thu lợi 150 triệu đô-la phí cầu đường. Tuy
nhiên, số tiền mà chính phủ Hoa Kỳ phải trả cho chính phủ Panama chỉ
khoảng 2,3 triệu đô-la, thêm vào đó Mỹ còn đặt 14 căn cứ quân đội tại quốc
gia này.
Trở lại năm 1903, Mỹ đã dàn xếp cuộc bạo động cách mạng chống lại chính
phủ Colombia và giúp thành lập Cộng hòa Panama nhỏ bé ngay tại Trung
Mỹ. Sau đó, Mỹ đã cưỡng chế Columbia buộc chính phủ nước này phải
chấp thuận hiệp ước cho phép quân đội Mỹ thành lập căn cứ quân sự cũng
như nắm quyền kiểm soát kênh đào chiến lược tại đây và công nhận chủ
quyền vĩnh viễn. Năm 1977, để đáp lại sự phản đối các công dân Mỹ tại
Panama, chính quyền Carter đã quyết định tiến hành đàm phán về hiệp ước