bể lớn nhất, hay Biển Lớn, chứa được trên hai triệu gallon. Vào mùa đông
các bể chứa này tích nước mưa, vào mùa hè lượng nước bổ sung được đưa
về bằng ống dẫn nước từ bể Siloam ở phía nam. Vô số đường ống đưa nước
lên mặt sàn, và rất nhiều đường cống được dùng để xả máu. Aristeas viết:
“Có nhiều chỗ mở cho nước thoát đi ở chân bàn thờ, không ai trông thấy cả
trừ những người đang làm lễ hiến sinh, khiến rất nhiều máu được thu lại và
rút đi trong nháy mắt.”
Ngôi đền có một đám đông người di chuyển khó khăn vào dịp lễ hội, và các
cánh cổng phải được mở từ nửa đêm trở đi. Chỉ thầy cả mới được bước vào
nơi cực thánh, một lần trong năm vào Ngày Chuộc tội, nhưng vào dịp lễ
hội, rèm được kéo lên để cho người hành hương là nam giới Do Thái có thể
nhìn vào bên trong qua các cánh cổng của điện thờ, và chậu thánh được
mang ra ngoài để kiểm tra. Mỗi người hành hương dâng ít nhất một vật
hiến sinh - do đó dẫn đến số lượng động vật rất lớn - và đặc quyền này
được mở cho cả những người phi Do Thái. Theo Josephus, ngôi đền của
Herod nổi tiếng thế giới và rất được ngưỡng mộ, những người phi Do Thái
quan trọng dâng vật hiến sinh vì lý do sùng đạo cũng như để hoà giải quan
điểm Do Thái. Chẳng hạn, năm 15 TCN, bạn của Herod, Marcus Agrippa,
có cử chỉ ấn tượng là dâng vật tế (100 con).
Ngôi đền vô cùng giàu có, ít nhất là vào thời gian giữa các cuộc cướp phá.
Các vị vua và chính khách nước ngoài từ Artaxerxes cho tới Hoàng đế
Augustus tặng cho nó rất nhiều chậu bằng vàng. Chậu được cất tại các căn
phòng chắc chắn đặc biệt nằm trong đền. Người Do Thái lưu vong từ khắp
nơi quyên tiền và hiến bát đĩa bằng vàng, bạc cho Ngôi đền, khá giống với
cách họ đóng góp cho Israel hiện nay, và Josephus nói rằng Ngôi đền trở
thành “tổng kho bạc của mọi của cải Do Thái.” Chẳng hạn, Hyrcanus, chủ
gia đình Tobiad thu thuế giàu có, “gửi vào đó toàn bộ của cải của gia đình
họ.”
Nhưng nguồn thu nhập thường xuyên chủ yếu là loại thuế nửa đồng
shekel đánh vào mọi nam giới Do Thái từ 20 tuổi trở lên.