kinh doanh), trong đó ông lập luận rằng thương gia và nhà sản xuất Do
Thái, vốn không được tham gia vào các phường hội, đã phát triển một sự ác
cảm hủy diệt đối với những nguyên tắc cơ bản của thương mại trung cổ.
Những nguyên tắc này thật nguyên thủy và phi tiến bộ: khao khát có được
tiền lương và giá cả “công bằng” (và cố định), có được một hệ thống bình
đẳng trong đó thị phần thống nhất và không thay đổi, lợi nhuận và sinh kế
khiêm tốn nhưng được đảm bảo, và sản xuất bị giới hạn. Nằm ngoài hệ
thống này, Sombart lập luận, người Do Thái phá vỡ nó và thay thế bằng chủ
nghĩa tư bản hiện đại, trong đó cạnh tranh là không giới hạn và làm hài
lòng khách hàng là luật lệ duy nhất.
Tác phẩm của Sombart sau này bị mất
uy tín vì nó được Đức Quốc xã sử dụng để biện minh cho sự phân biệt của
mình giữa chủ nghĩa thế giới thương mại Do Thái với văn hóa quốc gia
Đức; và bản thân Sombart, trong Deutscher Sozialismus (1934) (Chủ nghĩa
xã hội Đức), ủng hộ chính sách của Đức Quốc xã loại người Do Thái ra
khỏi đời sống kinh tế Đức. Luận đề của Sombart có chút sự thật, song
những kết luận ông đưa ra thì bị phóng đại. Giống như nỗ lực của Max
Weber nhằm quy tinh thần tư bản chủ nghĩa cho đạo đức Calvin, luận đề
này đã không đả động gì đến những sự thật bất tiện. Sombart phớt lờ yếu tố
thần bí mạnh mẽ trong Do Thái giáo. Giống như Weber, ông từ chối thừa
nhận rằng hễ nơi nào những hệ thống tôn giáo này, trong đó có Do Thái
giáo, quyền lực nhất và độc đoán nhất thì thương mại không phát triển
mạnh. Thương gia Do Thái, như những người Calvin, có xu hướng thành
công nhất khi họ rời bỏ môi trường tôn giáo truyền thống của mình và
chuyển sang những môi trường mới.
Nhưng nếu người Do Thái chỉ là một trong các yếu tố tạo ra hệ thống
thương mại hiện đại, thì chắc chắn đó là một yếu tố có sức ảnh hưởng lớn.
Họ hợp lý hóa những gì trước đây là một quá trình an nhàn, truyền thống và
thường có tính chất ngu dân. Ảnh hưởng của họ được thực hiện theo năm
cách chính. Thứ nhất, họ ủng hộ cải tiến sáng tạo. Thị trường chứng khoán
là một ví dụ. Đây là một cách hiệu quả và hợp lý để gây vốn và sử dụng
vốn cho những mục đích tốt nhất. Các nhóm lợi ích buôn bán truyền thống