các món quà mà họ mang về từ cùng trời cuối đất để tặng ông. Đây là phong tục họ làm theo ở
Babylon.
Các gaon và tiến sĩ cao cấp của học viện đòi hỏi được đối xử tương tự. Họ
được gọi bằng các danh xưng to tát, đưa ra những lời ban phước và lời
nguyền cầu kỳ trau chuốt. Họ hình thành một tầng lớp quý tộc thiêng liêng-
học thuật cha truyền con nối, không khác mấy so với tầng lớp quan lại ở
Trung Hoa.
Vào Kỷ nguyên đen tối, chế độ giáo sĩ trị Babylon này cũng là một bộ máy
tư pháp cha truyền con nối, tòa án phúc thẩm cuối cùng đối với toàn thể
cộng đồng Do Thái lưu vong. Nói đúng ra chế độ này không có quyền hành
pháp xét về mặt hữu hình - không quân đội, chỉ có duy nhất một lực lượng
cảnh sát địa phương. Nhưng nó có quyền rút phép thông công, một nghi lễ
ấn tượng thậm chí đáng sợ, ít nhất có từ thời Ezra. Nó cũng có quyền hạn
đối với việc học của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực của các giáo
sĩ cai trị ở Babylon chỉ kéo dài chừng nào đế chế Hồi giáo rộng lớn còn
thống nhất. Khi uy quyền lãnh thổ của caliph Baghdad suy giảm thì uy
quyền của họ cũng giảm sút. Những trung tâm học hành có uy tín mọc lên
ở Tây Ban Nha và Bắc Phi xung quanh các học giả đến từ các học viện
trước đây. Chẳng hạn khoảng năm 1060, Cairo trở thành một trung tâm
halakhah, nhờ có Nahrai ben Nissim đến từ Kairouan và Judah ha-Kohen
ben Joseph, giáo sĩ Rav nổi tiếng. Ở thế hệ tiếp theo, quyền hạn của họ rơi
vào tay một học giả đến từ Tây Ban Nha, Isaac ben Samuel, mà theo một
tài liệu thời đó, “quyền hạn đối với toàn bộ Ai Cập nằm trong tay người
này.” Những người này thường tuyên bố có dòng dõi gaon từ một trong các
học viện vĩ đại. Ngoài ra, họ thường là các nhà buôn thành đạt, hay có họ
hàng với các nhà buôn thành đạt. Nhưng một gia tộc học giả hàng đầu
không thể giữ được uy tín của mình, cho dù có giàu có đến đâu, trừ phi gia
tộc đó có thể sản sinh ra một lượng học giả đáng kính một cách đều đặn. Vì
trên thực tế, một cộng đồng Do Thái không thể tự quản nếu nó không
hưởng lợi từ những phán quyết halakhah thông thường, vốn được chấp